✨I-4 (tàu ngầm Nhật)

I-4 (tàu ngầm Nhật)

I-4 là một tàu ngầm tuần dương lớp bao gồm bốn chiếc có trọng lượng choán nước lên đến 2.135 tấn, được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nhập biên chế vào năm 1929, nó đã phục vụ trong cuộc Chiến tranh Trung-Nhật và Chiến tranh Thế giới thứ hai. Con tàu đã hỗ trợ cho cuộc tấn công Trân Châu Cảng, càn quét tàu bè tại Ấn Độ Dương, và tham gia các chiến dịch quần đảo Aleut, Guadalcanal và New Guinea trước khi bị tàu ngầm Hoa Kỳ đánh chìm gần đảo New Ireland vào ngày 21 tháng 12, 1942.

Thiết kế và chế tạo

Thiết kế

Junsen 1 (J1) là một lớp tàu ngầm tuần dương vốn được thiết kế chịu ảnh hưởng bởi chiếc SM U-142 thời Thế Chiến I của Đế quốc Đức. Chúng có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn, Nó được hạ thủy vào ngày 22 tháng 5, 1928, nó cùng tàu chị em I-3 được đưa về đơn vị mới này. Đến ngày 1 tháng 12, 1930, Đội tàu ngầm 8 bắt đầu phục vụ cùng Hải đội Tàu ngầm 1 trực thuộc Đệ Nhất hạm đội thuộc thành phần Hạm đội Liên hợp. Chúng kết thúc chuyến đi huấn luyện khi về đến Sasebo vào ngày 4 tháng 4, 1935. đến ngày 23 tháng 8, 1937, cả sáu chiếc tàu ngầm thuộc Hải đội Tàu ngầm 1 đã hoạt động trong biển Hoa Đông như lực lượng bảo vệ từ xa cho các thiết giáp hạm Nagato, Mutsu, HarunaKirishima cùng tàu tuần dương hạng nhẹ Isuzu làm nhiệm vụ vận chuyển binh lính từ Tadotsu, Shikoku đến Thượng Hải, Trung Quốc.

Đến ngày 5 tháng 10, I-4 được điều về Đơn vị Tuần tra "A", rồi đến ngày 10 tháng 10, nó cùng I-7 được điều động trực thuộc Lực lượng Tiền Phương, và được lệnh rời khu vực tuần tra để chuẩn bị tham gia một đợt đột kích bằng tàu ngầm tại vùng biển Espiritu Santo. Tuy nhiên kế hoạch đột kích bị hủy bỏ, và I-4 được điều trở lại Đơn vị Tuần tra "A" vào ngày 13 tháng 10. Sang ngày hôm sau, nó được lệnh bắn phá sân bay tại Espiritu Santo, nhưng tầm nhìn kém đã khiến chiếc tàu ngầm không tìm thấy mục tiêu. Đến ngày 16 tháng 10, nó tuần tra tại vùng biển giữa quần đảo Solomon và New Hebrides. Con tàu đang ở vị trí về phía Tây Espiritu Santo vào ngày 25 tháng 10, khi nó phát hiện một thiết giáp hạm, có thể là chiếc , được hai tàu khu trục hộ tống đang hướng sang phía Tây. Nó mất dấu mục tiêu trong một cơn mưa giông nên không thể tấn công, và quay trở về Truk vào ngày 3 tháng 11.

Tại căn cứ Truk, I-4 trải qua đợt cải tạo từ ngày 4 đến ngày 16 tháng 11, được tháo dỡ khẩu hải pháo 14-cm trên boong phía sau tàu, và lắp đặt bộ gá để mang theo một xuồng đổ bộ kín nước dài lớp Daihatsu phía sau tháp chỉ huy, để có thể thả hàng tiếp liệu dọc bờ biển quần đảo Solomon. I-4 được điều về Đơn vị Tuần tra "B" vào ngày 15 tháng 11, và đảm nhận nhiệm vụ được Hạm đội Liên hợp chỉ thị nhằm tiếp tế cho Tập đoàn quân 17 đang cầm cự tại Guadalcanal.

I-4 khởi hành từ Truk vào ngày 20 tháng 11 để đi sang Rabaul trên đảo New Britain thuộc quần đảo Bismarck. Nó dừng tại căn cứ này từ ngày 23 đến ngày 25 tháng 11, nhận lên tàu một xuồng Daihatsu, rồi lên đường để hướng sang quần đảo Shortland. Sau khi đến nơi vào ngày 26 tháng 11, nó lên đường hai ngày sau đó với 20 tấn thực phẩm và thuốc men cho chuyến đi tiếp liệu đầu tiên sang Guadalcanal, đi đến ngoài khơi vịnh Kamimbo tại bờ biển Tây Bắc Guadalcanal vào ngày 30 tháng 11. Nó nhanh chóng cho đổ bộ chiếc xuồng Daihatsu rồi lên đường quay trở về Rabaul, đến nơi vào ngày 3 tháng 12. I-4 lại bắt đầu một chuyến đi tiếp liệu khác sang Guadalcanal vào ngày 5 tháng 12, vận chuyển 20 tấn thực phẩm và thuốc men, và cho đổ bộ lên vịnh Kamimbo vào ngày 8 tháng 12. Nó ghé lại Shortland từ ngày 10 đến ngày 12 tháng 12 trong chặng quay trở về, và về đến Rabaul vào ngày 14 tháng 12.

Chiến dịch New Guinea

Vào ngày 16 tháng 12, I-4 khởi hành từ Rabaul cho một chuyến đi tiếp liệu khẩn cấp đến Buna, New Guinea, nhằm hỗ trợ cho lực lượng Nhật Bản đang tham gia Chiến dịch New Guinea. Nó đi đến ngoài khơi cửa sông Mambare trên bờ biển Đông Bắc New Guinea lúc 22 giờ 15 phút ngày 18 tháng 12, nhưng lúc đang đi trên mặt nước, nó bị các tàu tuần tra phóng lôi PT-121PT-122 phát hiện. Những chiếc PT boat đã phóng hai quả ngư lôi tấn công, tất cả đều bị trượt, nhưng cũng đủ để buộc chiếc tàu ngầm phải lặn xuống rút lui. Nó quay trở lại khu vực vài giờ sau đó, nhưng không thể liên lạc được với lực lượng đồn trú trên bờ. Hạm trưởng I-4 gửi một bức điện về căn cứ, cho biết ông quyết định hủy bỏ chuyến đi tiếp liệu và quay trở lại Rabaul.

Bị mất

Tàu ngầm Hoa Kỳ , được báo trước nhờ việc giải mã thông tin vô tuyến chặn được từ phía Nhật Bản, đã phát hiện I-4 tại lối ra vào phía Nam của eo biển St. George's ngoài khơi đảo New Ireland, lúc 06 giờ 21 phút ngày 21 tháng 12. Vào lúc này I-4 đang đi trên mặt nước hướng lên phía Bắc với tốc độ , còn cách Rabaul . Đến 06 giờ 37 phút, Seadragon phóng bốn quả ngư lôi Mark 10 tấn công từ khoảng cách . I-4 rõ ràng đã phát hiện các quả ngư lôi đang tiến đến, nên đã cố gắng bẻ lái né tránh. Hai quả ngư lôi đầu tiên trượt mục tiêu và kích nổ sớm, nhưng quả ngư lôi thứ ba đã trúng đích phía sau tàu, nổ tung và gây ra một đám cháy. Mũi của I-4 nhô lên gần như thẳng đứng khi nó đắm tại tọa độ . Toàn bộ 90 thành viên thủy thủ đoàn trên tàu đều tử trận.

Đến ngày 5 tháng 1, 1943, Hải quân Nhật Bản chính thức công bố I-4 có thể đã bị mất với toàn bộ thủy thủ đoàn tại khu vực Rabaul. Tên nó được rút khỏi đăng bạ hải quân vào ngày 1 tháng 3, 1943.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_I-4_** là một tàu ngầm tuần dương lớp bao gồm bốn chiếc có trọng lượng choán nước lên đến 2.135 tấn, được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến
**_I-124_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 52_** và mang tên **_I-24_** từ năm 1927 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
**_I-122_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 49_** và mang tên **_I-22_** từ năm 1926 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
**_I-69_**, sau đổi tên thành **_I-169_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**_I-121_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 48_** và mang tên **_I-21_** từ năm 1924 đến năm 1938 là một tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu
**_I-26_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_I-35_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_I-44_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944, nó từng thực
**_I-2_** là một tàu ngầm tuần dương lớp bao gồm bốn chiếc có trọng lượng choán nước lên đến 2.135 tấn, được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến
**_I-7_** là một tàu ngầm tuần dương phân lớp bao gồm hai chiếc có khả năng mang máy bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó cùng với tàu chị em _I-8_ là những
**_I-36_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_I-58_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Đang khi chế tạo, nó được cải biến
**_I-372_** là một tàu ngầm vận tải thuộc lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-12_** là một tàu ngầm lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai, thuộc phân lớp Type A Cải tiến 1 (Type A2). Nhập
**_I-68_**, sau đổi tên thành **_I-168_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**_I-367_** là một tàu ngầm vận tải thuộc lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-15_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã
**_I-351_** là một tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc duy nhất của lớp tàu ngầm chở dầu _I-351_ () được Nhật Bản hoàn tất trong giai đoạn cuối Chiến tranh
**_I-183_** (nguyên mang tên **_I-83_**) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1943. Nó đã hoạt động trong Chiến
**_I-185_** (nguyên mang tên **_I-85_**) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1943. Nó đã hoạt động trong Chiến
**_I-123_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 50_** và mang tên **_I-23_** từ năm 1927 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
**_I-20_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã
**_I-366_** là một tàu ngầm vận tải thuộc lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-8_** là một tàu ngầm tuần dương phân lớp bao gồm hai chiếc có khả năng mang máy bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó cùng với tàu chị em _I-7_ là những
**_I-176_** (nguyên là **_tàu ngầm số 154_**, rồi **_I-76_** cho đến ngày 20 tháng 5, 1942) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc
**_I-373_** là một tàu ngầm vận tải được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai, là chiếc duy nhất thuộc lớp Type D2 được
**_I-33_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_I-13_** là một tàu ngầm lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai, thuộc phân lớp Type A Cải tiến 2 (Type AM). Được
là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã tham
**_I-179_** (nguyên là **_tàu ngầm số 157_**, rồi **_I-79_** cho đến ngày 1 tháng 11, 1941) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc
**_I-182_** (nguyên mang tên **_I-82_**) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1943. Nó đã hoạt động trong Chiến
**_I-60_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIB nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1928. Nó liên can đến tai nạn va chạm vốn đã làm
**_I-14_** là một tàu ngầm lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai, thuộc phân lớp Type A Cải tiến 2 (Type AM).
**_I-6_** là một tàu ngầm tuần dương, là chiếc duy nhất thuộc phân lớp của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, và có khả năng mang máy bay. Nhập biên chế năm 1935, _I-6_ đã
**_I-47_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C2 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-3_** là một tàu ngầm tuần dương lớp bao gồm bốn chiếc có trọng lượng choán nước lên đến 2.135 tấn, được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến
**_I-29_**, tên mã _Matsu_, là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm
**_I-53_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C3 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu ngầm
**_I-56_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944, nó hoạt động
**_I-1_** là một tàu ngầm lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu ngầm tuần dương
**_I-5_** là chiếc tàu ngầm mang máy bay đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản và đã hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Là chiếc duy nhất trong phân lớp
**_I-10_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_I-19_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_I-64_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai IV nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1930. Nó đã phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_I-177_** (nguyên là **_tàu ngầm số 155_**, rồi **_I-77_** cho đến ngày 20 tháng 5, 1942) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc
**_I-65_**, sau đổi tên thành **_I-165_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai V nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1932. Nó đã phục vụ trong
**_I-66_**, sau đổi tên thành **_I-166_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai V nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1932. Nó đã phục vụ trong
**_I-18_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã
**_I-184_** (nguyên mang tên **_I-84_**) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1943. Nó đã hoạt động trong Chiến
**_I-59_**, sau đổi tên thành **_I-159_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIB nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1929. Trong Chiến tranh Thế giới thứ