✨Kirishima (thiết giáp hạm Nhật)

Kirishima (thiết giáp hạm Nhật)

Kirishima (tiếng Nhật: 霧島) là một thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp Kongō từng hoạt động trong Thế Chiến II và bị đánh chìm trong trận Hải chiến Guadalcanal. Tên của nó được đặt theo tên một ngọn núi ở ranh giới giữa tỉnh Miyazaki và Kagoshima ở Kyūshū

Thiết kế và chế tạo

Thoạt đầu được thiết kế như một tàu chiến-tuần dương, Kirishima được đặt lườn bởi Mitsubishi tại Nagasaki vào ngày 17 tháng 3 năm 1912, được hạ thủy vào ngày 1 tháng 12 năm 1913, và được đưa vào hoạt động ngày 19 tháng 4 năm 1915. Từ năm 1933 đến năm 1934, nó được tái cấu trúc tại Xưởng hải quân Kure thành một "thiết giáp hạm nhanh", với lượng rẽ nước nặng hơn 4.000 tấn so với thiết kế ban đầu.

Lịch sử hoạt động

nhỏ|trái|Kirishima (giữa) cùng các tàu tuần dương [[Takao (tàu tuần dương Nhật)|Takao (sau) và Atago (trước) hướng đến Guadalcanal để bắn phá Henderson Field vào ngày 14 tháng 11 năm 1942. Chiếc thiết giáp hạm bị đánh chìm chỉ vài giờ sau khi bức ảnh này được chụp.]] Vị thuyền trưởng chỉ huy đầu tiên trong giai đoạn Thế Chiến II là Yamaguchi Jihei, nguyên là chỉ huy trưởng tàu tuần dương hạng nặng Takao, sau đó được thăng lên Chuẩn Đô đốc, và sau này được thăng lên Phó Đô đốc. Nó được bố trí đến Đội Thiết giáp hạm 3 dưới quyền chỉ huy của Phó Đô đốc Gunichi Mikawa cùng với những con tàu chị em Hiei, KongōHaruna.

Vào ngày 26 tháng 11 năm 1941 Kirishima đi cùng với Lực lượng cơ động ("Kido Butai") tham gia vào cuộc tấn công Trân Châu Cảng. Cùng với hầu hết các tàu trong Lực lượng Đặc nhiệm, nó quay về căn cứ hải quân tại Kure vào ngày 24 tháng 12. Từ đây, hạm đội khởi hành đi đến căn cứ hải quân tại Truk, rồi tiếp tục đến khu vực Nam Thái Bình Dương để hỗ trợ cho việc tấn công chiếm đóng Rabaul và Kavieng.

Kirishima đã cùng với Hiei hộ tống Lực lượng Tấn công Tàu sân bay thực hiện cuộc không kích vào Darwin, Australia vào ngày 19 tháng 12 năm 1942. Nó cũng tham gia trận chiến biển Java vào ngày 1 tháng 3, tấn công các tàu bè Khối Đồng Minh thời Đệ Nhị Thế Chiến trong Trận không kích Ấn Đô Dương từ ngày 5 đến ngày 9 tháng 4, và trong bi kịch của trận Midway từ ngày 4 đến ngày 4 tháng 6 năm 1942.

Trong Đội Thiết giáp hạm 11, KirishimaHiei tham gia Trận chiến Đông Solomon vào ngày 24 tháng 8 và trận chiến Santa Cruz vào ngày 26 tháng 10.

Vào ngày 15 tháng 11 năm 1942, Kirishima đối đầu cùng các tàu chiến Mỹ trong trận Hải chiến Guadalcanal. Trong khi đang gây được một số thiệt hại cho chiếc thiết giáp hạm USS South Dakota, nó đã không nhận biết chiếc Washington đang ở khoảng cách 7,3 km (8000 yard). Chiếc Washington nhanh chóng nả 75 quả đạn pháo 406 mm (16 inch) nhắm vào Kirishima, trong đó 9 quả trúng đích, cùng nhiều quả đạn 127 mm (5 inch). Cấu trúc thượng tầng của Kirishima ngập tràn trong lửa và chiếc tàu chiến bắt đầu xoay vòng tại chỗ và mất kiểm soát. Chỉ huy tàu buộc phải cho đánh đắm, thủy thủ đoàn được cho chuyển sang một chiếc tàu khu trục, và cho mở van Kingston để đánh đắm tàu. Kirishima bị chìm ở phía Đông Bắc đảo Savo.

Năm 1992, nhà hải dương học Robert D. Ballard tìm thấy xác chiếc Kirishima ở độ sâu 1.220 m (4.000 feet), nằm lật úp với mũi tàu và phần chóp đuôi tàu bị cắt rời ra.

Danh sách thuyền trưởng

  • Rokuro Kamaya (sĩ quan trang bị trưởng): 15 tháng 12 năm 1914 - 19 tháng 4 năm 1915
  • Rokuro Kamaya: 19 tháng 4 năm 1915 - 13 tháng 12 năm 1915
  • Takeshi Shima: 13 tháng 12 năm 1915 - 1 tháng 12 năm 1916
  • Junichi Matsumura: 1 tháng 12 năm 1916 - 18 tháng 7 năm 1917
  • Masaki Nakamura: 18 tháng 7 năm 1917 - 1 tháng 12 năm 1917
  • Kinzaburo Mimura: 1 tháng 12 năm 1917 - 10 tháng 11 năm 1918
  • Genjiro Katsuki: 10 tháng 11 năm 1918 - 20 tháng 11 năm 1919
  • Takashi Yoko: 20 tháng 11 năm 1919 - 8 tháng 1 năm 1920
  • Sukeichi Yasumura: 8 tháng 1 năm 1920 - 1 tháng 12 năm 1921
  • Heigo Teraoka: 1 tháng 12 năm 1921 - 1 tháng 12 năm 1922
  • Masataka Ando: 1 tháng 12 năm 1922 - 6 tháng 11 năm 1923
  • Teiji Sakamoto: 6 tháng 11 năm 1923 - 1 tháng 12 năm 1924
  • Fujita Hisanori: 1 tháng 12 năm 1924 - 20 tháng 10 năm 1925
  • Takayoshi Kato: 20 tháng 10 năm 1925 - 1 tháng 12 năm 1926
  • Naojiro Honjuku: 1 tháng 12 năm 1926 - 1 tháng 12 năm 1927
  • Kanekoto Iwamura: 1 tháng 12 năm 1927 - 10 tháng 3 năm 1928
  • Yoshikazu Furukawa: 10 tháng 3 năm 1928 - 10 tháng 12 năm 1928
  • Choji Inoue: 10 tháng 12 năm 1928 - 8 tháng 2 năm 1929
  • Minoru Hirota: 8 tháng 2 năm 1929 - 1 tháng 11 năm 1929
  • Takuo Fujisawa: 1 tháng 11 năm 1929 - 1 tháng 12 năm 1930
  • Shigeru Kikuno: 1 tháng 12 năm 1930 - 1 tháng 12 năm 1931
  • Sekizo Uno: 1 tháng 12 năm 1931 - 1 tháng 12 năm 1932
  • Haruo Kitaoka: 1 tháng 12 năm 1932 - 15 tháng 11 năm 1933
  • Takahashi Ibo: 15 tháng 11 năm 1933 - 15 tháng 11 năm 1934
  • Kunji Tange: 15 tháng 11 năm 1934 - 15 tháng 11 năm 1935
  • Mikawa Gunichi: 15 tháng 11 năm 1935 - 1 tháng 12 năm 1936
  • Kakusaburo Makita: 1 tháng 12 năm 1936 - 1 tháng 12 năm 1937
  • Masao Kanazawa: 1 tháng 12 năm 1937 - 15 tháng 11 năm 1938
  • Takeo Tada: 15 tháng 11 năm 1938 - 15 tháng 11 năm 1939
  • Kyuji Kubo: 15 tháng 11 năm 1939 - 27 tháng 12 năm 1939
  • Saichiro Tomonari: 27 tháng 12 năm 1939 - 19 tháng 10 năm 1940
  • Kazutaka Shiraishi: 19 tháng 10 năm 1940 - 15 tháng 8 năm 1941
  • Yamaguchi Jihei: 15 tháng 8 năm 1941 - 20 tháng 4 năm 1942
  • Sanji Iwabuchi: 20 tháng 4 năm 1942 - 15 tháng 11 năm 1942
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_Kirishima_** (tiếng Nhật: 霧島) là một thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp _Kongō_ từng hoạt động trong Thế Chiến II và bị đánh chìm trong trận Hải chiến Guadalcanal.
**_Kongō_** (tiếng Nhật: 金剛, Kim Cương) là chiếc tàu chiến-tuần dương đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc kiểu siêu-Dreadnought, là chiếc dẫn đầu của lớp Kongō bao gồm những chiếc _Hiei_,
**_Haruna_** (tiếng Nhật: 榛名, được đặt theo tên đỉnh núi Haruna), là một thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản từng hoạt động trong Chiến tranh thế giới thứ nhất và chiến
**_Hiei_** (tiếng Nhật: 比叡) là một thiết giáp hạm thuộc lớp _Kongō_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, được đặt tên theo đỉnh núi Hiei ở phía Đông Bắc Kyoto. Trước năm 1940, nó
**Lớp thiết giáp hạm _North Carolina**_ là một lớp bao gồm hai thiết giáp hạm, _North Carolina_ và _Washington_, được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ vào cuối thập niên 1930 và đầu thập
**Lớp thiết giáp hạm _South Dakota**_ là một nhóm bốn thiết giáp hạm nhanh được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Chúng là lớp thiết giáp
**_Takao_** (tiếng Nhật: 高雄) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm bốn chiếc, được thiết kế cải tiến dựa
**USS _Washington_ (BB-56)**, chiếc thiết giáp hạm thứ hai trong lớp _North Carolina_ vốn chỉ bao gồm hai chiếc, là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này
**Hải quân Đế quốc Nhật Bản** (kanji cổ: 大日本帝國海軍, kanji mới: 大日本帝国海軍, romaji: _Dai-Nippon Teikoku Kaigun_, phiên âm Hán-Việt: **_Đại Nhật Bản Đế quốc Hải quân_**), tên chính thức **Hải quân Đế quốc Đại Nhật
**USS _South Dakota_ (BB-57)** là một thiết giáp hạm được Hải quân Hoa Kỳ đưa ra hoạt động từ năm 1942 đến năm 1947. Là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó, _South Dakota_ là
**** là một chiến lược hải quân nhằm định hướng sự phát triển của Hải quân Đế quốc Nhật Bản cho giai đoạn đầu thế kỷ 20. Chiến lược này yêu cầu Hải quân Nhật
nhỏ|phải|_Ikazuchi_ trên đường đi ngoài khơi Trung Quốc, năm 1938 **_Ikazuchi_** (tiếng Nhật: 雷) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_, (cũng là chiếc thứ
nhỏ|phải|_Akatsuki_ trên [[sông Dương Tử, Trung Quốc, tháng 8 năm 1937]] **_Akatsuki_** (tiếng Nhật: 暁) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_, (cũng là chiếc
**_Nagara_** (tiếng Nhật: 長良) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó. Tên của nó được đặt theo tên sông Nagara
**_Chikuma_** (tiếng Nhật: 筑摩) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ hai trong lớp _Tone_ vốn chỉ có hai chiếc. Tên của nó được đặt
Tên tàu Nhật tuân theo các quy ước khác nhau từ những quy ước điển hình ở phương Tây. Tên tàu buôn thường chứa từ _maru_ ở cuối (nghĩa là _vòng tròn_), trong khi tàu
**_Akagi_** (tiếng Nhật: 赤城; Hán-Việt: _Xích Thành_) là một tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, được đặt tên theo núi Akagi thuộc
**_Tone_** (tiếng Nhật: 利根) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó vốn bao gồm cả chiếc _Chikuma_. Tên của nó
**_Atago_** (tiếng Nhật: 愛宕) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp _Takao_ bao gồm bốn chiếc, được thiết kế cải tiến dựa trên lớp _Myōkō_ trước
**_Abukuma_** (tiếng Nhật: 阿武隈) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Nagara_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Tên của nó được đặt theo sông Abukuma tại khu vực Tōhoku của Nhật
**_Jintsū_** (tiếng Nhật: 神通) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp _Sendai_. Tên của nó được đặt theo sông Jinzu tại tỉnh Gifu và Toyama ở
nhỏ|phải|Các tàu khu trục [[Shigure (tàu khu trục Nhật)|_Shigure_ và _Samidare_ hoạt động ngoài khơi bờ biển Bougainville trong quần đảo Solomon, vài giờ trước trận Hải chiến Vella Lavella vào ngày 7 tháng 10
**_I-4_** là một tàu ngầm tuần dương lớp bao gồm bốn chiếc có trọng lượng choán nước lên đến 2.135 tấn, được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến
**_I-3_** là một tàu ngầm tuần dương lớp bao gồm bốn chiếc có trọng lượng choán nước lên đến 2.135 tấn, được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến
**Trận hải chiến Guadalcanal** hay theo như cách gọi của Nhật Bản là **Dai Sanji Solomon Kaisen** (第三次ソロモン海戦, だいさんじソロモンかいせん; _Hải chiến Solomon lần thứ ba_), diễn ra từ ngày 12 đến ngày 15 tháng 11
**Tàu khu trục lớp Kongō** (tiếng Nhật: こんごう型護衛艦) là lớp tàu khu trục mang tên lửa có điều khiển (DDG) đầu tiên của Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF) được chế tạo
**Trận tấn công Trân Châu Cảng** (hay **Chiến dịch Hawaii** và **Chiến dịch AI** của Hawaii, và **Chiến dịch Z** theo cách gọi của Bộ Tổng tư lệnh Đế quốc Nhật Bản) là một cuộc
**USS _San Francisco_ (CA-38)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _New Orleans_, là chiếc tàu chiến thứ hai được đặt tên theo thành phố San Francisco thuộc
nhỏ|phải|[[HMS Hood (51)|HMS _Hood_, tàu chiến-tuần dương lớn nhất từng được chế tạo, lớn hơn mọi thiết giáp hạm Anh Quốc cho đến khi chiếc HMS _Vanguard_ đưa ra hoạt động vào năm 1946. Nó
**_Trận chiến Midway_** (tựa gốc tiếng Anh: **Midway**) là một bộ phim điện ảnh lịch sử Hoa Kỳ được sản xuất và phát hành năm 2019, do Roland Emmerich làm đạo diễn, Harald Kloser làm
**USS _Aaron Ward_ (DD-483)** là một tàu khu trục lớp _Gleaves_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã tham gia trong Thế Chiến II tại Mặt
**Nagumo Chūichi** (, 25 tháng 3 năm 1887 - 6 tháng 7 năm 1944) là đại tướng Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai, tướng tiên phong hàng đầu
là một phi công Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Sakai là phi công ách chủ bài ("Gekitsui-O", 撃墜王) của Hải quân Nhật Bản có thành tích cao
Khẩu **Vickers 14 inch 45 li** được thiết kế và chế tạo bởi Vickers và ban đầu được lắp đặt trên thiết giáp-tuần dương _Kongō _được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản.
**USS Luzon** (PG-47) được đặt bởi Công ty Dock và Kỹ thuật Kiangnan, Thượng Hải, Trung Quốc vào ngày 20 tháng 11 năm 1926; ra mắt ngày 12 tháng 9 năm 1927; được tài trợ
**USS _Gwin_ (DD-433)** là một tàu khu trục lớp _Gleaves_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã hoạt động tại khu vực Đại Tây Dương trước
**USS _Walke_ (DD-416)** là một tàu khu trục lớp _Sims_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai; nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân
**USS _Pensacola_ (CL/CA-24)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó, và là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Hoa Kỳ