✨Akatsuki (tàu khu trục Nhật)

Akatsuki (tàu khu trục Nhật)

nhỏ|phải|Akatsuki trên [[sông Dương Tử, Trung Quốc, tháng 8 năm 1937]]

Akatsuki (tiếng Nhật: 暁) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp Fubuki, (cũng là chiếc dẫn đầu của lớp Akatsuki nếu như xem đây là một lớp tàu riêng biệt), được chế tạo trong giai đoạn giữa hai cuộc thế chiến. Khi được đưa vào hoạt động, những con tàu này là những tàu khu trục mạnh mẽ nhất thế giới. Chúng phục vụ như những tàu khu trục hàng đầu trong những năm 1930, và tiếp tục là những vũ khí lợi hại trong cuộc Chiến tranh Thái Bình Dương. Akatsuki từng tham gia nhiều hoạt động trong những năm chiến tranh trước khi bị đánh chìm trong trận Hải chiến Guadalcanal vào ngày 13 tháng 11 năm 1942 trong Chiến tranh Thế giới thứ hai.

Thiết kế và chế tạo

Việc chế tạo lớp tàu khu trục Fubuki tiên tiến được chấp thuận vào năm tài chính 1923 như một phần của chương trình có tham vọng cung cấp cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản một ưu thế về chất lượng so với những tàu chiến hiện đại nhất của thế giới. Khả năng thể hiện của lớp Fubuki là một bước nhảy vọt so với các thiết kế tàu khu trục trước đó, nên chúng được gọi là các "tàu khu trục đặc biệt" (tiếng Nhật: 特型 - Tokugata). Kích thước lớn, động cơ mạnh mẽ, tốc độ cao, bán kính hoạt động lớn và vũ khí trang bị mạnh chưa từng có khiến cho các tàu khu trục này có được hỏa lực tương đương nhiều tàu tuần dương hạng nhẹ của hải quân các nước khác. Lớp phụ Akatsuki là một phiên bản cải tiến của Fubuki, có dáng vẽ bên ngoài hầu như giống nhau, nhưng tích hợp những thay đổi trong hệ thống động lực.

Akatsuki, được chế tạo tại xưởng hải quân Sasebo, là chiếc đầu tiên trong loạt tàu cải tiến Kiểu III dựa trên Fubuki, bao gồm kiểu tháp pháo có thể nâng các khẩu pháo chính 127 mm (5 inch)/50 caliber Kiểu 3 lên một góc 75° so với nguyên thủy 40°, cho phép sử dụng chúng như pháo lưỡng dụng có thể chống lại máy bay. Akatsuki được đặt lườn vào ngày 17 tháng 2 năm 1930. Nó được hạ thủy vào ngày 7 tháng 5 năm 1932 và đưa ra hoạt động vào ngày 30 tháng 11 năm 1932.

Lịch sử hoạt động

Sau khi hoàn tất, cùng với các tàu khu trục chị em Inazuma, HibikiIkazuchi, Akatsuki được phân về Khu trục đội 6 thuộc Hạm đội 1 Hải quân Đế quốc Nhật Bản và tham gia các hoạt động trong cuộc Chiến tranh Trung-Nhật. Giống như những chiếc cùng kiểu, nó được cải biến vào giữa những năm 1930 nhằm khắc phục những khiếm khuyết trong thiết kế đồng thời để nâng cao đặc tính chiến đấu.

Vào lúc xảy ra cuộc tấn công Trân Châu Cảng, Akatsuki được phân về Khu trục đội 6 của Thủy lôi chiến đội 1 thuộc Hạm đội 1 Hải quân Đế quốc Nhật Bản, và đã được bố trí từ Quân khu Hải quân Mako để hỗ trợ cho Lực lượng Viễn chinh Phương Nam của Đô đốc Nobutake Kondō tiến hành các chiến dịch đổ bộ lên Malaya, rồi sau đó là tại Đông Ấn thuộc Hà Lan, kể cả việc chiếm đóng Tây Java và Philippines. Nó từng tấn công, nhưng không đánh chìm được tàu ngầm USS Permit vào ngày 17 tháng 3 năm 1942.

Sau khi quay trở về Xưởng hải quân Yokosuka để bảo trì vào tháng 3 năm 1942, Akatsuki được phân công hoạt động tại vùng biển phía Bắc. Nó được bố trí từ Quân khu Bảo vệ Ōminato để hỗ trợ cho Lực lượng Phía Bắc của Đô đốc Boshiro Hosogaya trong Chiến dịch Quần đảo Aleut, tuần tra vùng biển chung quanh Kiska và Attu trong tháng 6 và tháng 7, và đã kéo chiếc tàu khu trục chị em Hibiki bị hư hại từ Kiska quay trở về Paramushiro thuộc quần đảo Kuril. Nó tiếp tục tuần tra vùng biển phía Bắc chung quanh các quần đảo Kurile và Aleut cho đến cuối tháng 7.

Sau khi được bảo trì tại Yokosuka vào cuối tháng 7, Akatsuki được phân công hộ tống các tàu sân bay mới ZuihōUnyō đi đến Truk, thực hiện các nhiệm vụ tại quần đảo Solomon và quay trở lại Quân khu Hải quân Kure. Từ tháng 10, Akatsuki được sử dụng trong nhiều chuyến đi vận chuyển "Tốc hành Tokyo" khắp trong khu vực quần đảo Solomon.

Vào ngày 25 tháng 10 năm 1942, cùng với các tàu khu trục IkazuchiShiratsuyu, Akatsuki thực hiện một cuộc bắn phá ban ngày tại khu vực "eo biển Đáy Sắt" ngoài khơi Guadalcanal, với kết quả đã làm hư hại tàu quét mìn nhanh USS Zane và đánh chìm chiếc tàu kéo hạm đội USS Seminole cùng tàu tuần tra YP-284, trước khi lực lượng Nhật Bản bị đánh đuổi bởi hỏa lực pháo phòng vệ duyên hải của lực lượng Thủy quân Lục chiến Mỹ. Akatsuki bị hư hại nhẹ khi tháp pháo số 3 trúng phải đạn pháo phòng duyên, khiến bốn người thiệt mạng.

Ba tuần sau đó, Akatsuki quay trở lại "eo biển Đáy Sắt" trong thành phần một lực lượng bắn phá mạnh mẽ, được xây dựng chung quanh các thiết giáp hạm HieiKirishima. Trong trận Hải chiến Guadalcanal vào đêm 12-13 tháng 11 năm 1942, đơn vị này chạm trán với một lực lượng đặc nhiệm Đồng Minh bao gồm các tàu tuần dương và tàu khu trục. Hoạt động bên sườn phải của các thiết giáp hạm Nhật Bản, Akatsuki được ghi nhận đã bắn pháo chiếu sáng rồi sau đó phóng ngư lôi đánh chìm tàu tuần dương Mỹ USS Atlanta. Không lâu sau đó, nó chịu đựng hỏa lực pháo nặng nề từ phía Mỹ và bị đánh chìm sớm trong trận chiến gần đảo Savo, ở tọa độ , với tổn thất gần hết thủy thủ đoàn. Trong tổng số 197 người trên tàu, chỉ có 18 người sau đó được lực lượng Mỹ vớt và bắt làm tù binh.

Ngày 15 tháng 12 năm 1942, Akatsuki được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân.

Danh sách thuyền trưởng

  • Thiếu tá Ichimatsu Takahashi (sĩ quan trang bị trưởng): 16 tháng 5 năm 1932 - 30 tháng 11 năm 1932
  • Thiếu tá Ichimatsu Takahashi: 30 tháng 11 năm 1932 - 15 tháng 11 năm 1934; thăng Trung tá 1 tháng 12 năm 1932
  • Thiếu tá Masao Tachibana: 15 tháng 11 năm 1934 - 15 tháng 11 năm 1935; thăng Trung tá
  • Trung tá Tamekiyo Oda: 15 tháng 11 năm 1935 - 1 tháng 12 năm 1936
  • Trung tá Yasuo Sato: 1 tháng 12 năm 1936 - 6 tháng 7 năm 1937
  • Trung tá Katsukiyo Shinoda: 6 tháng 7 năm 1937 - 8 tháng 10 năm 1937
  • Trung tá Kiichiro Shoji: 8 tháng 10 năm 1937 - 16 tháng 5 năm 1938
  • Thiếu tá Takeo Koyama: 16 tháng 5 năm 1938 - 1 tháng 8 năm 1938
  • Thiếu tá Yoshio Kawashima: 1 tháng 8 năm 1938 - 15 tháng 11 năm 1940: thăng Trung tá 15 tháng 11 năm 1939
  • Thiếu tá Kyuji Aoki: 15 tháng 11 năm 1940 - 13 tháng 4 năm 1942
  • Thiếu tá Osamu Takasuka: 13 tháng 4 năm 1942 - 13 tháng 11 năm 1942; thăng Trung tá 1 tháng 11 năm 1942; tử trận, được truy thăng Đại tá
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|phải|_Akatsuki_ trên [[sông Dương Tử, Trung Quốc, tháng 8 năm 1937]] **_Akatsuki_** (tiếng Nhật: 暁) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_, (cũng là chiếc
nhỏ|phải|_Ikazuchi_ trên đường đi ngoài khơi Trung Quốc, năm 1938 **_Ikazuchi_** (tiếng Nhật: 雷) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_, (cũng là chiếc thứ
**_Inazuma_** (tiếng Nhật: 電) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_, (cũng là chiếc cuối cùng của lớp _Akatsuki_ nếu như xem đây là một
**_Hibiki_** (tiếng Nhật: 響) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_, (cũng là chiếc thứ hai trong lớp _Akatsuki_ nếu như xem đây là một
**_Wakaba_** (tiếng Nhật: 若葉) là một tàu khu trục hạng nhất thuộc lớp _Hatsuharu_ bao gồm sáu chiếc của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, được chế tạo trong những năm 1931-1933. _Wakaba_ đã tham
**_Hatsushimo_** (tiếng Nhật: 初霜) là một tàu khu trục hạng nhất thuộc lớp _Hatsuharu_ bao gồm sáu chiếc của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, được chế tạo trong những năm 1931-1933. _Hatsushimo_ đã tham
**_Ariake_** (tiếng Nhật: 有明) là một tàu khu trục hạng nhất thuộc lớp _Hatsuharu_ bao gồm sáu chiếc của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, được chế tạo trong những năm 1931-1933. _Ariake_ đã tham
**_Yugure_** (tiếng Nhật: 夕暮; Hán Việt: _Tịch mộ_; chiều tà) là một tàu khu trục hạng nhất thuộc lớp _Hatsuharu_ bao gồm sáu chiếc của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, được chế tạo trong
**_Nenohi_** (tiếng Nhật: 子日) là một tàu khu trục hạng nhất thuộc lớp _Hatsuharu_ bao gồm sáu chiếc của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, được chế tạo trong những năm 1931-1933. _Nenohi_ đã tham
**_Hatsuharu_** (tiếng Nhật: 初春) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu khu trục _Hatsuharu_ bao gồm sáu chiếc được chế tạo
phải|Sơ đồ mô tả lớp _Fubuki_ của Văn phòng Tình báo Hải quân Hoa Kỳ **Lớp tàu khu trục _Fubuki**_ (tiếng Nhật: 吹雪型駆逐艦-Fubukigata kuchikukan) là một lớp bao gồm hai mươi bốn tàu khu trục
**Lớp tàu khu trục _Hatsuharu**_ (tiếng Nhật: 初春型駆逐艦 - Hatsuharugata kuchikukan) là một lớp bao gồm sáu tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản phục vụ trước và trong Chiến
nhỏ|Hình ảnh về lớp _Asashio_ **Lớp tàu khu trục _Asashio**_ (tiếng Nhật: 朝潮型駆逐艦 - Asashio-gata kuchikukan) là một lớp mười tàu khu trục của Hải quân Đế quốc Nhật Bản đã phục vụ trước và
**Lớp tàu khu trục _Akatsuki**_ (tiếng Nhật: 暁型駆逐艦, Akatsuki-gata kuchikukan) là một lớp bốn tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được chế tạo trong giai đoạn giữa hai cuộc
Đây là danh sách các tàu khu trục của Nhật Bản xếp theo cuộc chiến cuối cùng mà chúng tham gia. Theo thuật ngữ hàng hải, tàu khu trục là loại tàu nhỏ, cơ động
là một trong bốn tàu thuộc lớp tàu phóng lôi Chidori của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó bị lật trong một cơn bão vào ngày 12 tháng 3 năm 1934, ngay sau khi
**_Nagara_** (tiếng Nhật: 長良) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó. Tên của nó được đặt theo tên sông Nagara
**USS _Aaron Ward_ (DD-483)** là một tàu khu trục lớp _Gleaves_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã tham gia trong Thế Chiến II tại Mặt
**USS _Barton_ (DD-599)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Benson_ của Hải quân Hoa Kỳ đã phục vụ trong suốt Chiến tranh Thế giới thứ hai cho đến khi bị đánh chìm trong trận
**Akatsuki** (暁) có nghĩa là bình minh hay rạng đông trong tiếng Nhật. Akatsuki có thể chỉ: * Lớp tàu khu trục Akatsuki, một trong bốn lớp tàu khu trục dược đóng năm 1932 của
Các hạm đội tham gia trận Tsushima, 27/28 tháng 5 năm 1905 ## viền|45x45px|Japanese Naval Ensign Hạm đội liên hợp Nhật ### Chiến đội một *thế=|nhỏ|490x490px|Kì hạm của Hạm đội Nhật, Thiết giáp hạm [[Mikasa
Đây là danh sách các tàu chiến thuộc Đế quốc Nhật Bản. ## Tàu chiến trung cổ * Atakebune, Tàu chiến cận bờ thế kỉ 16. * Châu Ấn Thuyền – Khoảng 350 tàu buồm
**USS _Zane_ (DD-337/DMS-14/AG-109)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân
thumb|Quân xưởng Hải quân Sasebo (1920-1930) là một trong bốn nhà máy đóng tàu hải quân chính thuộc quyền sở hữu và điều hành bởi Hải quân Đế quốc Nhật Bản. ## Lịch sử phải|Quân
**USS _Astoria_ (CA-34)** (trước đó là **CL-34**) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _New Orleans_, là chiếc tàu chiến thứ hai được đặt tên theo thành phố
**Trận chiến sân bay Henderson**, hay còn được bên Nhật Bản gọi là **trận Lunga Point**, là trận đánh diễn ra từ ngày 23 tháng 10 đến ngày 26 tháng 10 năm 1942 tại Guadalcanal
**Trận hải chiến Guadalcanal** hay theo như cách gọi của Nhật Bản là **Dai Sanji Solomon Kaisen** (第三次ソロモン海戦, だいさんじソロモンかいせん; _Hải chiến Solomon lần thứ ba_), diễn ra từ ngày 12 đến ngày 15 tháng 11
, thường được viết và gọi tắt thành , là một trò chơi thẻ bài trực tuyến miễn phí được phát triển bởi Kadokawa Games. Trò chơi ra mắt vào ngày 23 tháng 4 năm
, là một series phim truyền hình Tokusatsu của Nhật. Loạt phim được công chiếu trên TV Asahi từ ngày 28 tháng 1 năm 2001 đến ngày 27 tháng 1 năm 2002. Đây là phần
**Tuyến Gyeongbu** (Tiếng Hàn: 경부선, Hanja: 京釜線) là tuyến đường sắt trục chính của Tổng công ty Đường sắt Hàn Quốc kết nối ga Seoul ở Yongsan-gu, Seoul và ga Busan ở Dong-gu, Busan, Hàn
**Jidai-geki** (thời đại kịch) là một thể loại phim điện ảnh, phim truyền hình hay kịch nói với bối cảnh là các thời kỳ trước cuộc Duy Tân Meiji (Minh Trị), trước thời Edo hoặc
**_Dã ngoại thảnh thơi_**, hay còn được biết với tên gốc là một bộ manga Nhật Bản do Afro viết và minh họa. Câu chuyện lấy bối cảnh xung quanh tỉnh Yamanashi, Nhật Bản theo