Lớp tàu khu trục _Akatsuki_ (tiếng Nhật: 暁型駆逐艦, Akatsuki-gata kuchikukan) là một lớp bốn tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được chế tạo trong giai đoạn giữa hai cuộc thế chiến. Hầu như tương tự về kiểu dáng bên ngoài so với lớp Fubuki trước đó, nhiều tác giả đã xem chúng chỉ là một lớp phụ, một phần do bản thân Hải quân Nhật giữ bí mật về những sự cải tiến đã được thực hiện, và chưa bao giờ công bố bốn chiếc tàu khu trục này như một lớp tàu riêng biệt. Không nên nhầm lẫn lớp tàu khu trục này với lớp Akatsuki (1901) cũ hơn nhiều của giai đoạn Chiến tranh Nga-Nhật.
Bối cảnh
Với những kinh nghiệm có được sau vài năm hoạt động cùng với lớp Fubuki, Bộ Tổng tham mưu Hải quân Đế quốc Nhật Bản đặt ra nhu cầu đóng thêm bốn "tàu khu trục đặc biệt" (tiếng Nhật: 特型 - Tokugata), có tốc độ tối đa 72 km/h (39 knot), có tầm hoạt động 7.400 km (4.000 hải lý) ở tốc độ đường trường 26 km/h (14 knot), và trang bị ngư lôi Kiểu 8. Những tàu khu trục này được dự định để hoạt động cùng loạt tàu tuần dương mới nhanh và mạnh mẽ vốn cũng đang được vạch kế hoạch, như một phần của chương trình có tham vọng cung cấp cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản một ưu thế về chất lượng so với những tàu chiến hiện đại nhất của thế giới..
Thiết kế
Những chiếc trong lớp Akatsuki có nồi hơi lớn hơn và ống khói phía trước hẹp hơn so với những chiếc Fubuki trước đó. Bên trong, số lượng nồi hơi được giảm từ bốn xuống còn ba, nhờ những cải tiến trong thiết kế nồi hơi và hiệu suất. Các cải tiến khác so với lớp Fubuki còn có ống phóng ngư lôi chống được mảnh đạn pháo, cho phép nạp lại được quả ngư lôi trong khi đang tác chiến, điều mà các tàu khu trục của Phương Tây thậm chí cho đến những năm 1990 vẫn chưa có. Tháp pháo có thể nâng lên đến góc 70°, làm cho chúng trở thành kiểu pháo đa dụng, đối phó được với mục tiêu trên biển lẫn trên không. Thoạt tiên chúng được trang bị ngư lôi Kiểu 8 bố trí trên ba ống phóng ba nòng; sau đó được thay thế trong giai đoạn Thế chiến II bằng loại ngư lôi Kiểu 93 "Long Lance" nổi tiếng vận hành bằng oxygen.
Lịch sử hoạt động
Trong số 4 tàu khu trục thuộc lớp Akatsuki được hoàn tất, hầu hết đã bị mất trong tác chiến trong Chiến tranh Thế giới thứ hai; chỉ còn lại Hibiki sống sót qua cuộc chiến tranh, bị Hải quân Liên Xô tịch thu như một chiến lợi phẩm và tiếp tục sử dụng cho đến năm 1964.
Những chiếc trong lớp
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lớp tàu khu trục _Akatsuki**_ (tiếng Nhật: 暁型駆逐艦, Akatsuki-gata kuchikukan) là một lớp bốn tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được chế tạo trong giai đoạn giữa hai cuộc
nhỏ|phải|_Ikazuchi_ trên đường đi ngoài khơi Trung Quốc, năm 1938 **_Ikazuchi_** (tiếng Nhật: 雷) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_, (cũng là chiếc thứ
nhỏ|phải|_Akatsuki_ trên [[sông Dương Tử, Trung Quốc, tháng 8 năm 1937]] **_Akatsuki_** (tiếng Nhật: 暁) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_, (cũng là chiếc
**_Inazuma_** (tiếng Nhật: 電) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_, (cũng là chiếc cuối cùng của lớp _Akatsuki_ nếu như xem đây là một
**_Hibiki_** (tiếng Nhật: 響) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_, (cũng là chiếc thứ hai trong lớp _Akatsuki_ nếu như xem đây là một
**_Hatsuharu_** (tiếng Nhật: 初春) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu khu trục _Hatsuharu_ bao gồm sáu chiếc được chế tạo
**_Wakaba_** (tiếng Nhật: 若葉) là một tàu khu trục hạng nhất thuộc lớp _Hatsuharu_ bao gồm sáu chiếc của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, được chế tạo trong những năm 1931-1933. _Wakaba_ đã tham
**_Hatsushimo_** (tiếng Nhật: 初霜) là một tàu khu trục hạng nhất thuộc lớp _Hatsuharu_ bao gồm sáu chiếc của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, được chế tạo trong những năm 1931-1933. _Hatsushimo_ đã tham
**_Nenohi_** (tiếng Nhật: 子日) là một tàu khu trục hạng nhất thuộc lớp _Hatsuharu_ bao gồm sáu chiếc của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, được chế tạo trong những năm 1931-1933. _Nenohi_ đã tham
**_Ariake_** (tiếng Nhật: 有明) là một tàu khu trục hạng nhất thuộc lớp _Hatsuharu_ bao gồm sáu chiếc của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, được chế tạo trong những năm 1931-1933. _Ariake_ đã tham
**_Yugure_** (tiếng Nhật: 夕暮; Hán Việt: _Tịch mộ_; chiều tà) là một tàu khu trục hạng nhất thuộc lớp _Hatsuharu_ bao gồm sáu chiếc của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, được chế tạo trong
**_Nagara_** (tiếng Nhật: 長良) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó. Tên của nó được đặt theo tên sông Nagara
Đây là danh sách các tàu chiến thuộc Đế quốc Nhật Bản. ## Tàu chiến trung cổ * Atakebune, Tàu chiến cận bờ thế kỉ 16. * Châu Ấn Thuyền – Khoảng 350 tàu buồm
**USS _Astoria_ (CA-34)** (trước đó là **CL-34**) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _New Orleans_, là chiếc tàu chiến thứ hai được đặt tên theo thành phố