✨Hibiki (tàu khu trục Nhật)

Hibiki (tàu khu trục Nhật)

Hibiki (tiếng Nhật: 響) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp Fubuki, (cũng là chiếc thứ hai trong lớp Akatsuki nếu như xem đây là một lớp tàu riêng biệt), được chế tạo trong giai đoạn giữa hai cuộc thế chiến. Khi được đưa vào hoạt động, những con tàu này là những tàu khu trục mạnh mẽ nhất thế giới. Chúng phục vụ như những tàu khu trục hàng đầu trong những năm 1930, và tiếp tục là những vũ khí lợi hại trong cuộc Chiến tranh Thái Bình Dương.

Thiết kế và chế tạo

Việc chế tạo lớp tàu khu trục Fubuki tiên tiến được chấp thuận vào năm tài chính 1923 như một phần của chương trình có tham vọng cung cấp cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản một ưu thế về chất lượng so với những tàu chiến hiện đại nhất của thế giới. Khả năng thể hiện của lớp Fubuki là một bước nhảy vọt so với các thiết kế tàu khu trục trước đó, nên chúng được gọi là các "tàu khu trục đặc biệt" (tiếng Nhật: 特型 - Tokugata). Kích thước lớn, động cơ mạnh mẽ, tốc độ cao, bán kính hoạt động lớn và vũ khí trang bị mạnh chưa từng có khiến cho các tàu khu trục này có được hỏa lực tương đương nhiều tàu tuần dương hạng nhẹ của hải quân các nước khác. Lớp phụ Akatsuki là một phiên bản cải tiến của Fubuki, có dáng vẽ bên ngoài hầu như giống nhau, nhưng tích hợp những thay đổi trong hệ thống động lực.

Hibiki, được chế tạo tại xưởng hải quân Maizuru ở Osaka, là chiếc thứ hai trong loạt tàu cải tiến Kiểu III dựa trên Fubuki, bao gồm kiểu tháp pháo có thể nâng các khẩu pháo chính 127 mm (5 inch)/50 caliber Kiểu 3 lên một góc 75° so với nguyên thủy 40°, cho phép sử dụng chúng như pháo lưỡng dụng có thể chống lại máy bay. Hibiki được đặt lườn vào ngày 21 tháng 2 năm 1930. Nó được hạ thủy vào ngày 16 tháng 6 năm 1932 và đưa ra hoạt động vào ngày 31 tháng 3 năm 1933.

Lịch sử hoạt động

Sau khi hoàn tất, cùng với các tàu khu trục chị em Inazuma, AkatsukiIkazuchi, Hibiki được phân về Hải đội Khu trục 6 thuộc Hạm đội 1 Hải quân Đế quốc Nhật Bản và tham gia các hoạt động trong cuộc Chiến tranh Trung-Nhật. Giống như những chiếc cùng kiểu, nó được cải biến vào giữa những năm 1930 nhằm khắc phục những khiếm khuyết trong thiết kế đồng thời để nâng cao đặc tính chiến đấu.

Vào lúc xảy ra cuộc tấn công Trân Châu Cảng, Hibiki được phân về Hải đội Khu trục 6 của Đội khu trục 1 thuộc Hạm đội 1 Hải quân Đế quốc Nhật Bản, và đã được bố trí từ Quân khu Hải quân Mako để hỗ trợ cho Lực lượng Viễn chinh Phương Nam của Đô đốc Nobutake Kondō tiến hành các chiến dịch đổ bộ lên Malaya và chiếm đóng Philippines, tiếp tục hỗ trợ các hoạt động tiếp theo tại Philippine cho đến cuối tháng 3 năm 1942.

Sau khi quay trở về Xưởng hải quân Yokosuka để sửa chữa vào tháng 4 năm 1942, Hibiki được phân công hoạt động tại vùng biển phía Bắc. Nó được bố trí từ Quân khu Bảo vệ Ōminato để hỗ trợ cho Lực lượng Phía Bắc của Đô đốc Boshirō Hosogaya chiếm đóng đảo Kiska trong Chiến dịch Quần đảo Aleut vào tháng 5 và tháng 6 năm 1942. Nó bị hư hại vào ngày 12 tháng 6 tại Kiska bởi một cuộc tấn công của các thủy phi cơ PBY Catalina của Hải quân Hoa Kỳ, và bị buộc phải rút lui Ōminato vào cuối tháng 6. Công việc sửa chữa tại Yokosuka kéo dài cho đến tháng 10.

Từ tháng 11 năm 1942 đến cuối tháng 4 năm 1943, Hibiki phục vụ như là tàu hộ tống cho các tàu sân bay UnyōTaiyō trong nhiều nhiệm vụ khác nhau giữa Yokosuka and Truk, ngoại trừ thời gian một tháng trải qua trong ụ tàu tại Yokosuka vào tháng 1 năm 1943. Từ tháng 5 năm 1943, Hibiki quay trở lại các vùng biển phía Bắc, tuần tra ngoài khơi bờ biển Hokkaidō và quần đảo Kurile. Sau đó Hibiki đã trợ giúp vào việc triệt thoái lực lượng Nhật Bản còn lại tại quần đảo Aleut trong suốt tháng 8.

Trong tháng 5 và tháng 6 năm 1944, Hibiki hộ tống các đoàn tàu vận tải chở dầu. Vào ngày 14 tháng 5, nó đã cứu vớt 125 người sống sót từ tàu khu trục chị em Inazuma bị trúng ngư lôi. Trong Trận chiến biển Philippine, Hibiki được bố trí về Lực lượng Tiếp tế thứ nhất, và đã chịu đựng thiệt hại nhẹ cùng hai người thiệt mạng do các đợt tấn công bắn phá của máy bay Mỹ.

Trong tháng 8, Hibiki hộ tống hai đoàn tàu vận tải từ Moji đến Cao Hùng và Okinawa. Vào tháng 9, sau khi rời Cao Hùng cùng một đoàn tàu vận tải hướng đến Manila, Hibiki trúng phải ngư lôi phóng từ tàu ngầm Mỹ USS Hake. Vụ nổ gần như phá hủy toàn bộ mũi tàu, và nó phải rút lui về Yokosuka để sửa chữa.

Vào ngày 25 tháng 1 năm 1945, Hibiki được phân về Hải đội Khu trục 7 thuộc Hạm đội 2 Hải quân Đế quốc Nhật Bản, nhưng được giữ lại vùng biển Nội địa Nhật Bản. Sau đó nó được tái bố trí đến Hạm đội Hộ tống thứ nhất vào tháng 5, và được chuyển đến Quân khu Hải quân Kure, nơi nó hoạt động như một tàu bảo vệ cho đến khi Nhật Bản đầu hàng. Sau khi chiến tranh kết thúc, nó được giải giáp và được sử dụng như một tàu hồi hương. Hibiki được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 5 tháng 10 năm 1945.

Phục vụ cùng Hải quân Xô Viết

Vào ngày 5 tháng 4 năm 1947, Hibiki được chuyển giao cho Liên Xô tại Nahodka như một chiến lợi phẩm, và đưa vào hoạt động cùng Hải quân Liên Xô dưới tên gọi Verniy (Верный), sau khi được tái vũ trang bằng vũ khí do Xô Viết chế tạo: 6 pháo 130 mm, 7 pháo 25 mm, 4 đến 6 súng máy 12,7 mm và 6 ống phóng ngư lôi 533 mm. Nó được đưa ra phục vụ cùng Hạm đội Thái Bình Dương Liên Xô đặt căn cứ tại Vladivostok từ ngày 7 tháng 7 năm 1947. Nó được đổi tên một lần nữa thành Dekabrist (Декабрист) vào ngày 5 tháng 7 năm 1948. Nó được cho ngừng hoạt động vào ngày 20 tháng 2 năm 1953 và được tháo dỡ sau đó.

Danh sách thuyền trưởng

  • Thiếu tá Matsuro Eguchi (sĩ quan trang bị trưởng): 15 tháng 11 năm 1932 - 30 tháng 1 năm 1933; thăng Trung tá 1 tháng 12 năm 1932
  • Trung tá Matsuro Eguchi: 30 tháng 1 năm 1933 - 1 tháng 8 năm 1934
  • Trung tá Heitaro Edo: 1 tháng 8 năm 1934 - 21 tháng 11 năm 1935
  • Trung tá Masami Ban: 21 tháng 11 năm 1935 - 1 tháng 12 năm 1936
  • Thiếu tá Yoshio Inoue: 1 tháng 12 năm 1936 - 13 tháng 7 năm 1937
  • Thiếu tá Katsuo Shiba: 13 tháng 7 năm 1937 - 1 tháng 12 năm 1937
  • Trung tá Sadaichi Mizobatane: 1 tháng 12 năm 1937 - 1 tháng 12 năm 1938
  • Thiếu tá Jiro Okamoto: 1 tháng 12 năm 1938 - 15 tháng 10 năm 1939
  • Thiếu tá Michio Oka: 15 tháng 10 năm 1939 - 15 tháng 10 năm 1940
  • Thiếu tá Risaku Hayashi: 15 tháng 10 năm 1940 - 25 tháng 9 năm 1941; thăng Trung tá 15 tháng 11 năm 1940
  • Thiếu tá Hagumu Ishii: 25 tháng 9 năm 1941 - 13 tháng 8 năm 1942
  • Thiếu tá Shunsaku Kudo: 13 tháng 8 năm 1942 - 10 tháng 12 năm 1942
  • Thiếu tá Takuji Mori: 10 tháng 12 năm 1942 - 25 tháng 11 năm 1943
  • Trung tá Eikichi Fukushima: 25 tháng 11 năm 1943 - 18 tháng 7 năm 1945
  • Thiếu tá Hajime Sonozuki: 18 tháng 7 năm 1945 - 15 tháng 8 năm 1945
👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_Hibiki_** (tiếng Nhật: 響) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_, (cũng là chiếc thứ hai trong lớp _Akatsuki_ nếu như xem đây là một
**_Yukikaze_** (tiếng Nhật: 雪風) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp _Kagerō_ đã phục vụ tại Mặt trận Thái Bình Dương trong Chiến tranh Thế giới
**_Inazuma_** (tiếng Nhật: 電) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_, (cũng là chiếc cuối cùng của lớp _Akatsuki_ nếu như xem đây là một
nhỏ|phải|_Akatsuki_ trên [[sông Dương Tử, Trung Quốc, tháng 8 năm 1937]] **_Akatsuki_** (tiếng Nhật: 暁) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_, (cũng là chiếc
nhỏ|phải|_Ikazuchi_ trên đường đi ngoài khơi Trung Quốc, năm 1938 **_Ikazuchi_** (tiếng Nhật: 雷) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_, (cũng là chiếc thứ
phải|Sơ đồ mô tả lớp _Fubuki_ của Văn phòng Tình báo Hải quân Hoa Kỳ **Lớp tàu khu trục _Fubuki**_ (tiếng Nhật: 吹雪型駆逐艦-Fubukigata kuchikukan) là một lớp bao gồm hai mươi bốn tàu khu trục
**Lớp tàu khu trục _Akatsuki**_ (tiếng Nhật: 暁型駆逐艦, Akatsuki-gata kuchikukan) là một lớp bốn tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được chế tạo trong giai đoạn giữa hai cuộc
**Tàu giám sát đại dương lớp Hibiki** (Tiếng Nhật: **ひびき型音響測定艦**) là một lớp tàu giám sát thuộc Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF). Các tàu lớp Hibiki sở hữu hai đáy và
Tên tàu Nhật tuân theo các quy ước khác nhau từ những quy ước điển hình ở phương Tây. Tên tàu buôn thường chứa từ _maru_ ở cuối (nghĩa là _vòng tròn_), trong khi tàu
**USS _Nields_ (DD-616)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Benson_ của Hải quân Hoa Kỳ đã phục vụ trong suốt Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của
Đây là danh sách các tàu chiến thuộc Đế quốc Nhật Bản. ## Tàu chiến trung cổ * Atakebune, Tàu chiến cận bờ thế kỉ 16. * Châu Ấn Thuyền – Khoảng 350 tàu buồm
thumb|Quân xưởng Hải quân Maizuru, 1945 là một trong bốn nhà máy đóng tàu hải quân chính được sở hữu và điều hành bởi Hải quân Đế quốc Nhật Bản. ## Lịch sử nhỏ|Tàu khu
**USS _Astoria_ (CA-34)** (trước đó là **CL-34**) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _New Orleans_, là chiếc tàu chiến thứ hai được đặt tên theo thành phố
, thường được viết và gọi tắt thành , là một trò chơi thẻ bài trực tuyến miễn phí được phát triển bởi Kadokawa Games. Trò chơi ra mắt vào ngày 23 tháng 4 năm
là một visual novel Nhật Bản phát triển bởi Key, một thương hiệu thuộc Visual Art's. Trò chơi phát hành ngày 24 tháng 6 năm 2011 trên hệ điều hành Windows của máy tính cá
, còn được gọi là **_Masked Rider Series_** (cho đến _Decade_ và ngoại trừ Thái Lan), là một thương hiệu truyền thông siêu anh hùng của Nhật Bản bao gồm các chương trình truyền hình
**_Girls und Panzer_** (Tiếng Nhật: ガールズ&パンツァ ー, Hepburn: _Gāruzu ando Pantsā_, trong Tiếng Đức có nghĩa là: "Thiếu nữ và Chiến xa"), viết tắt là **_GuP_** hoặc **_Garupan_** (ガルパン), là một anime sản xuất bởi
**_Song lang_** là một bộ phim điện ảnh chính kịch âm nhạc của Việt Nam năm 2018 do Leon Lê đạo diễn kiêm dựng phim, đồng thời cũng là tác phẩm điện ảnh đầu tay
là một bộ manga của Nhật Bản do Mashima Hiro sáng tác và minh hoạ. Bộ truyện được đăng nhiều kỳ trên tạp chí _Weekly Shōnen Magazine_ của Kodansha từ tháng 8 năm 2006 đến
là một bộ anime truyền hình Nhật Bản dài 13 tập được sản xuất bởi P.A. Works và Aniplex, do Seiji Kishi làm đạo diễn. Cốt truyện được sáng tác đầu tiên bởi Maeda Jun,
là loạt light novel được viết bởi Kawahara Reki và HiMA lo phần minh họa. Tác phẩm đã đăng trên tạp chí Dengeki Bunko của ASCII Media Works từ tháng 2 năm 2009. Nội dung