✨Takao (tàu tuần dương Nhật)

Takao (tàu tuần dương Nhật)

Takao (tiếng Nhật: 高雄) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm bốn chiếc, được thiết kế cải tiến dựa trên lớp Myōkō trước đó. Takao đã hoạt động cho đến hết Chiến tranh Thế giới thứ hai trước khi đầu hàng lực lượng Anh tại Singapore và bị đánh chìm tại eo biển Malacca.

Thiết kế và chế tạo

Những tàu chiến thuộc lớp Myōkō được xem là không ổn định và nhiều kinh nghiệm rút ra đã được áp dụng cải tiến cho lớp Takao. Chúng là những tàu chiến nhanh và mạnh mẽ, trang bị mười khẩu pháo 203 mm (8 inch) và bốn khẩu pháo 120 mm (4,7 inch), tám ống phóng ngư lôi và nhiều vũ khí phòng không hỗn hợp, một hỏa lực đủ mạnh để đối đầu với bất kỳ tàu tuần dương của mọi lực lượng hải quân trên thế giới.

Những chiếc trong lớp Takao được chấp thuận trong năm tài chính 1927 như một phần trong chiến lược của Hải quân Đế quốc Nhật Bản về một trận chiến quyết định. Chúng tạo nên xương sống cho lực lượng tấn công chiến đấu tầm xa. Takao được chế tạo tại Xưởng hải quân Yokosuka, và giống như những con tàu chị em với nó, tên nó được đặt theo tên một ngọn núi: Núi Takao (tiếng Nhật: 高雄山) tọa lạc tại ngoại ô Kyoto. Takao được đặt lườn vào ngày 28 tháng 4 năm 1927, được hạ thủy vào ngày 12 tháng 5 năm 1930 tại Xưởng hải quân Yokosuka và được đưa vào hoạt động ngày 31 tháng 5 năm 1932.

Lịch sử hoạt động

Lúc khởi đầu Chiến tranh Thái Bình Dương, Takao đặt dưới quyền chỉ huy của Thuyền trưởng Đại tá Hải quân Asakura Bunji và được phân về Hải đội Tuần dương 4 dưới quyền chỉ huy của Phó Đô đốc (sau này là Đô đốc) Kondo Nobutake cùng với các con tàu chị em với nó Maya, ChokaiAtago, và được trao nhiệm vụ hỗ trợ cho cuộc chiếm đóng Malaya và Philippines. Vào cuối tháng 12 năm 1941, nó bắn pháo hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lên vịnh Lingayen trên đảo Luzon tại Philippines.

Đầu năm 1942, Takao hoạt động tại khu vực biển Java trong khuôn khổ Trận chiến biển Java Sea vào đầu tháng 3. Vào ngày 1 tháng 3, một trong số các thủy phi cơ của Takao đã ném bom chiếc tàu buôn Hà Lan Enggano. Đêm hôm sau, TakaoAtago tiêu diệt chiếc tàu khu trục Pillsbury cũ của Hải quân Mỹ và nó chìm mà không có người nào sống sót. Sáng sớm ngày 4 tháng 3, Takao, Atago, Maya và hai tàu khu trục của Hải đội Khu trục 4, ArashiNowaki đã tấn công một đoàn tàu vận tải gần Tjilatjap. Chiếc xà lúp HMAS Yarra của Hải quân Hoàng gia Australia đã ra sức bảo vệ cho đoàn tàu vận tải trong một giờ rưỡi trước khi bị đánh chìm chỉ với 34 người sống sót trong tổng số 151 thành viên thủy thủ đoàn. Sau đó, các tàu tuần dương Nhật đã đánh chìm ba chiếc trong đoàn tàu vận tải: tàu chở dầu Francol, tàu quân nhu Anking, và một tàu quét mìn. Hai tàu chở hàng Hà Lan cũng bị chiếm giữ.

Vào tháng 6 năm 1942, TakaoMaya hỗ trợ cho cuộc chiếm đóng quần đảo Aleut. Vào ngày 3 tháng 6 năm 1942, những thủy phi cơ trinh sát của nó bị các máy bay tiêm kích Curtiss P-40 của Không lực Lục quân Hoa Kỳ trú đóng tại Umnak tấn công và hai chiếc bị bắn rơi. Ngày 5 tháng 6, Takao bắn rơi một máy bay ném bom B-17 Flying Fortress.

Vào tháng 8 năm 1942, Takao tham gia Chiến dịch Ka, một đợt tăng cường cho lực lượng Nhật Bản trong trận Guadalcanal, và tham gia Trận chiến quần đảo Santa Cruz vào ngày 26 tháng 10. Một cố gắng có chủ định để bắn phá căn cứ của Mỹ tại sân bay Henderson đã dẫn đến trận Hải chiến Guadalcanal vào sáng sớm ngày 15 tháng 11 năm 1942. Thiết giáp hạm Kirishima, được sự hỗ trợ của các tàu tuần dương TakaoAtago, đã đối đầu cùng các thiết giáp hạm Mỹ WashingtonSouth Dakota. Cả ba tàu chiến Nhật đã bắn trúng South Dakota nhiều phát đạn pháo khiến nó hư hỏng nặng; TakaoAtago còn bắn ngư lôi Long Lance nhằm vào Washington nhưng đều trượt. Tuy nhiên, Kirishima bị Washington bắn hỏng và phải tự đánh đắm sáng hôm sau. Atago bị hư hại trong khi Takao thoát ra an toàn nhưng phải rút lui về Truk. nhỏ|phải|Takao (xa phía sau) cùng thiết giáp hạm [[Kirishima (thiết giáp hạm Nhật)|Kirishima (giữa) đang hướng đến Guadalcanal ngày 14 tháng 11 năm 1942 để bắn phá sân bay Henderson. Ảnh chụp từ tàu tuần dương Atago.]] Đầu năm 1943, Takao hỗ trợ cho Chiến dịch Ke, cuộc triệt thoái lực lượng Nhật khỏi đảo Guadalcanal. Sau đó, dưới quyền chỉ huy của Inoguchi Toshihira, nó hoạt động tại khu vực Trung Thái Bình Dương từ căn cứ Truk. Ngày 5 tháng 11 năm 1943, trong khi đang được tiếp nhiên liệu tại Rabaul trong quần đảo Bismarck, Takao bị các máy bay ném bom bổ nhào SBD Dauntless từ tàu sân bay USS Saratoga tấn công, và bị trúng hai quả bom khiến 23 người thiệt mạng và hư hại hệ thống lái. Nó bị buộc phải quay về Yokosuka tại Nhật Bản và vào ụ tàu để sửa chữa.

Ngày 22 tháng 10 năm 1944, Takao gia nhập "Lực lượng Trung tâm" của Đô đốc Takeo Kurita và khởi hành từ vịnh Brunei để tham gia Trận chiến vịnh Leyte. Sang ngày 23 tháng 10, khi đang di chuyển ngang qua đảo Palawan, lực lượng Nhật Bản bị hai tàu ngầm Mỹ tấn công. Lúc 06 giờ 34 phút, Takao trúng hai quả ngư lôi phóng từ tàu ngầm USS Darter, làm hỏng hai trục và ngập nước ba phòng nồi hơi. Nó bị buộc phải quay trở về Brunei, và được hộ tống bởi các tàu khu trục NaganamiAsashimo, chiếc tàu phóng ngư lôi Hiyodori và tàu vận tải Mitsu Maru. Lực lượng này bị các tàu ngầm DarterDace tiếp tục săn đuổi cho đến sau nữa đêm ngày 24 tháng 10, khi Darter mắc cạn vào một bãi san hô tại bãi đá ngầm Bombay và Dace phải ở lại để cứu hộ.

Takao bị hỏng nặng đến mức không thể sửa chữa tại Singapore, cũng như không thể (và không có khả năng) kéo về Nhật Bản để sửa chữa. Vì vậy một phần đuôi tàu được cắt rời ra, và nó được cho neo đậu và sử dụng như một pháo đài phòng không nổi để phòng thủ Singapore. Trong khi thả neo tại đây, nó là mục tiêu của cuộc tấn công được thực hiện bởi tàu ngầm bỏ túi Anh XE-3 (Chiến dịch Struggle) vào ngày 31 tháng 7 năm 1945 dưới sự chỉ huy của Trung úy Ian Edward Fraser và Thủy thủ James Joseph Magennis. Magennis đã gắn được sáu quả "mìn hàu" vào thân chiếc Takao; và khi phát nổ đã tạo ra một lỗ thủng lớn 20 m x 10 m. Đa số các khẩu pháo của Takao bị mất tác dụng, hệ thống điều khiển hỏa lực bị phá hủy và nhiều ngăn bị ngập nước.

Vào ngày 5 tháng 9 năm 1945, căn cứ hải quân của Nhật Bản tại Eo biển Johor chính thức đầu hàng lực lượng Anh, và việc tiếp quản chiếc Takao, lúc đó vẫn có một số ít thủy thủ duy trì hoạt động, diễn ra vào ngày 21 tháng 9 năm 1945. Cuối cùng nó được kéo ra Eo biển Malacca để sử dụng như một mục tiêu tác xạ cho chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ HMS Newfoundland và bị đánh chìm vào ngày 19 tháng 10 năm 1946.

Danh sách thuyền trưởng

  • Takashi Ando (sĩ quan trang bị trưởng): 15 tháng 5 năm 1930 - 31 tháng 5 năm 1932
  • Takashi Ando: 31 tháng 5 năm 1932 - 1 tháng 11 năm 1932
  • Yorio Sawamoto: 1 tháng 11 năm 1932 - 15 tháng 11 năm 1933
  • Chuichi Nagumo: 15 tháng 11 năm 1933 - 15 tháng 11 năm 1934
  • Eiji Goto: 15 tháng 11 năm 1934 - 15 tháng 11 năm 1935
  • Kenzaburo Hara: 15 tháng 11 năm 1935 - 1 tháng 12 năm 1936
  • Takeo Takagi: 1 tháng 12 năm 1936 - 1 tháng 12 năm 1937
  • Nam tước Tadashige Daigo: 1 tháng 12 năm 1937 - 3 tháng 6 năm 1938
  • Mitsuharu Matsuyama: 3 tháng 6 năm 1938 - 15 tháng 11 năm 1939
  • Kengo Kobayashi: 15 tháng 11 năm 1939 - 1 tháng 11 năm 1940
  • Jihei Yamaguchi: 1 tháng 11 năm 1940 - 15 tháng 8 năm 1941
  • Bunji Asakura: 15 tháng 8 năm 1941 - 23 tháng 2 năm 1943
  • Toshihira Inoguchi: 23 tháng 2 năm 1943 - 28 tháng 10 năm 1943
  • Shigechika Hayashi: 28 tháng 10 năm 1943 - 29 tháng 8 năm 1944
  • Sutejiro Onoda: 29 tháng 8 năm 1944 - 22 tháng 3 năm 1945
  • Takeo Ishisaka: 22 tháng 3 năm 1945 - 15 tháng 8 năm 1945
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_Takao_** (tiếng Nhật: 高雄) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm bốn chiếc, được thiết kế cải tiến dựa
là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp _Takao_ bao gồm bốn chiếc, được thiết kế cải tiến dựa trên lớp _Myōkō_ trước đó. _Maya_ đã hoạt
**_Atago_** (tiếng Nhật: 愛宕) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp _Takao_ bao gồm bốn chiếc, được thiết kế cải tiến dựa trên lớp _Myōkō_ trước
**_Myōkō_** (tiếng Nhật: 妙高) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm bốn chiếc; những chiếc còn lại trong
**_Chōkai_** (tiếng Nhật: 鳥海) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp _Takao_ bao gồm bốn chiếc, được thiết kế cải tiến dựa trên lớp _Myōkō_ trước
**_Chikuma_** (tiếng Nhật: 筑摩) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ hai trong lớp _Tone_ vốn chỉ có hai chiếc. Tên của nó được đặt
**_Tone_** (tiếng Nhật: 利根) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó vốn bao gồm cả chiếc _Chikuma_. Tên của nó
**_Noshiro_** (tiếng Nhật: 能代) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Agano_ đã phục vụ cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó bị máy bay
**_Nagara_** (tiếng Nhật: 長良) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó. Tên của nó được đặt theo tên sông Nagara
**Suzuya** (tiếng Nhật: 鈴谷 S_uzuya_) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ ba trong tổng số bốn chiếc thuộc lớp _Mogami_. Tên của nó được
**_Kumano_** (tiếng Nhật: 熊野) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc cuối cùng trong tổng số bốn chiếc thuộc lớp _Mogami_. _Kumano_ từng hoạt động trong
**_Tatsuta_** (tiếng Nhật: 龍田) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ hai trong lớp _Tenryū_ bao gồm hai chiếc. Tên _Tatsuta_ của nó được đặt
Tàu tuần dương hạng nặng [[HMS Frobisher (D81)|HMS _Frobisher_ thuộc lớp _Hawkins_, vào khoảng thời gian mà Hiệp ước Hải quân Washington đặt ra những giới hạn cho tàu tuần dương hạng nặng.]] **Tàu tuần
_Lớp tàu tuần dương **Takao**_ (tiếng Nhật: 高雄型巡洋艦, Takao-gata junyōkan) là một lớp bao gồm bốn tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được hạ thủy trong những năm 1930
**Lớp tàu tuần dương _Mogami**_ (tiếng Nhật: 最上型巡洋艦, Mogami-gata junyōkan) là một lớp tàu tuần dương hạng nặng bao gồm bốn chiếc của Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào giữa những năm 1930. Thoạt
**_Kirishima_** (tiếng Nhật: 霧島) là một thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp _Kongō_ từng hoạt động trong Thế Chiến II và bị đánh chìm trong trận Hải chiến Guadalcanal.
**_Akagi_** (tiếng Nhật: 赤城; Hán-Việt: _Xích Thành_) là một tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, được đặt tên theo núi Akagi thuộc
nhỏ|phải|Các tàu khu trục [[Shigure (tàu khu trục Nhật)|_Shigure_ và _Samidare_ hoạt động ngoài khơi bờ biển Bougainville trong quần đảo Solomon, vài giờ trước trận Hải chiến Vella Lavella vào ngày 7 tháng 10
**_Naganami_** (tiếng Nhật: 長波) là một tàu khu trục thuộc lớp _Yūgumo_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, từng hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. _Naganami_ được đặt lườn tại Xưởng
Đây là danh sách các tàu chiến thuộc Đế quốc Nhật Bản. ## Tàu chiến trung cổ * Atakebune, Tàu chiến cận bờ thế kỉ 16. * Châu Ấn Thuyền – Khoảng 350 tàu buồm
**_Nadakaze_** (tiếng Nhật: 灘風) là một tàu khu trục thuộc lớp _Minekaze_ được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản ngay sau khi kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Chúng là
**_Yakaze_** (tiếng Nhật: 矢風) là một tàu khu trục thuộc lớp _Minekaze_ được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản ngay sau khi kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Chúng là
**_Yūkaze_** (tiếng Nhật: 夕風) là một tàu khu trục thuộc lớp _Minekaze_ được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản ngay sau khi kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Chúng là
**_Kongō_** (tiếng Nhật: 金剛, Kim Cương) là chiếc tàu chiến-tuần dương đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc kiểu siêu-Dreadnought, là chiếc dẫn đầu của lớp Kongō bao gồm những chiếc _Hiei_,
**Chiến tranh Nhật - Thanh** (cách gọi Nhật Bản, ), hay **chiến tranh Giáp Ngọ** (cách gọi Trung Quốc, ) là một cuộc chiến tranh giữa đế quốc Đại Thanh và đế quốc Nhật Bản
**Tàu khu trục lớp Maya** (**lớp 27DDG,** tiếng Nhật: **まや型護衛艦**) là một biến thể cải tiến của tàu khu trục lớp Atago, đã hoạt động trong biên chế Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật
**_Yamato_** (), tên được đặt theo vùng đất nay là tỉnh Nara của Nhật Bản, là một thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Thế Chiến II, và là soái hạm
**Lớp tàu khu trục _Hatsuharu**_ (tiếng Nhật: 初春型駆逐艦 - Hatsuharugata kuchikukan) là một lớp bao gồm sáu tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản phục vụ trước và trong Chiến
**Lớp tàu khu trục _Shiratsuyu**_ (tiếng Nhật: 白露型駆逐艦 - Shiratsuyugata kuchikukan) là một lớp bao gồm mười tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản phục vụ trước và trong Chiến
**Cuộc hành quân xâm lược Vigan của Nhật Bản** (Tiếng Philippines: Paglusob ng mga Hapones sa Vigan, tiếng Ilocano: Dimmarup dagiti Hapones iti Vigan) vào ngày 10 tháng 12 năm 1941 là một trong các
**USS _South Dakota_ (BB-57)** là một thiết giáp hạm được Hải quân Hoa Kỳ đưa ra hoạt động từ năm 1942 đến năm 1947. Là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó, _South Dakota_ là
**Nagumo Chūichi** (, 25 tháng 3 năm 1887 - 6 tháng 7 năm 1944) là đại tướng Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai, tướng tiên phong hàng đầu
, là một cuộc nổi loạn của các cựu samurai ở phiên Satsuma chống lại triều đình Thiên hoàng Minh Trị từ 29 tháng 1 năm 1877 đến 24 tháng 9 năm 1877, niên hiệu
**USS _Washington_ (BB-56)**, chiếc thiết giáp hạm thứ hai trong lớp _North Carolina_ vốn chỉ bao gồm hai chiếc, là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này
**Trận hải chiến Guadalcanal** hay theo như cách gọi của Nhật Bản là **Dai Sanji Solomon Kaisen** (第三次ソロモン海戦, だいさんじソロモンかいせん; _Hải chiến Solomon lần thứ ba_), diễn ra từ ngày 12 đến ngày 15 tháng 11
**** là một chiến lược hải quân nhằm định hướng sự phát triển của Hải quân Đế quốc Nhật Bản cho giai đoạn đầu thế kỷ 20. Chiến lược này yêu cầu Hải quân Nhật
**Chiến dịch Philippines (1941–1942)** (tiếng Philippines: Kampanya sa Pilipinas, tiếng Tây Ban Nha: Campaña en las Filipinas del Ejercito Japonés, tiếng Nhật: フィリピンの戦い, tiếng Lating: Firipin no Tatakai), hay còn được biết đến với tên
**USS _Trigger_ (SS-237)** là một tàu ngầm lớp _Gato_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa
**USS _Pillsbury_ (DD-227)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và đã tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Thế
thumb|Quân xưởng Hải quân Kure, 1945 là một trong bốn nhà máy đóng tàu hải quân chính được sở hữu và điều hành bởi Hải quân Đế quốc Nhật Bản. ## Lịch sử thumb|Thiết giáp
**Cuộc hành quân xâm lược vùng vịnh Lingayen của Nhật Bản** (tiếng Philippines: Paglusob ng mga Hapones sa Golfo ng Lingayen) là điểm then chốt trong kế hoạch đánh chiếm Philippines của Nhật Bản. Việc
**Lớp thiết giáp hạm _South Dakota**_ là một nhóm bốn thiết giáp hạm nhanh được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Chúng là lớp thiết giáp
25 tháng 1 1892 - 8 tháng 7 1944 là một trong số các đại tướng của hải quân đế quốc Nhật Bản trong thế chiến thứ hai. Ông đã chỉ huy hạm đội Nhật
nhỏ|Một mũi quả lê cong lên từ phía dưới con tàu, nếu đỉnh cao hơn điểm nối với thân tàu, thì các đường hầm xuyên qua bên hông là các bộ chân vịt mũi. Một
,hay còn gọi là **Thân vương Takamatsu** là con trai thứ ba của Thiên hoàng Đại Chính và Hoàng hậu Trinh Minh và là em trai của Thiên hoàng Chiêu Hòa. Ông trở thành người
thumb|Tuyến đường đắp cao Johor-Singapore bắc qua eo biển, nhìn từ Woodlands Checkpoint tại Singapore. thumb|Lối vào phía đông của Eo biển Johor, nhìn từ [[sân bay Changi, với đảo Singapore ở bên trai và
là tuyến đường sắt dài 37,9 km ở phía tây Tokyo, Nhật Bản, thuộc sở hữu của nhà điều hành đường sắt tư nhân Keio Corporation. Tuyến này kết nối Shinjuku, Tokyo, với thành phố ngoại
là một loạt anime truyền hình thuộc thể loại chính kịch, lãng mạn, âm nhạc dựa trên ấn phẩm manga _Lời nói dối tháng Tư_ của tác giả Arakawa Naoshi do Ishiguro Kyōhei đạo diễn.
là một bộ manga Nhật Bản được viết lời và minh họa bởi Oshimi Shūzō. Nó được đăng theo kỳ trên _Bessatsu Shōnen Magazine_ của Kodansha từ ngày 9 tháng 9 năm 2009 đến ngày
File:2021 collage V2.png|Từ bên trái, theo chiều kim đồng hồ: Kính viễn vọng không gian James Webb được phóng vào năm 2021; Những người biểu tình ở Yangon, Myanmar sau cuộc đảo chính; Một cuộc