✨Yamato (thiết giáp hạm Nhật)

Yamato (thiết giáp hạm Nhật)

Yamato (), tên được đặt theo vùng đất nay là tỉnh Nara của Nhật Bản, là một thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Thế Chiến II, và là soái hạm của Hạm đội Liên hợp Nhật Bản. Nó là chiếc dẫn đầu trong lớp thiết giáp hạm mang tên nó. Đây là thiết giáp hạm lớn nhất mà loài người từng chế tạo.

Yamato, cùng với chiếc tàu chị em với nó là Musashi, là những chiếc thiết giáp hạm lớn nhất và nặng nhất từng được chế tạo, với lượng rẽ nước lên đến 73.100 tấn khi đầy tải, và được trang bị dàn pháo chính gồm chín khẩu đại pháo với cỡ nòng lên đến 460 mm (18,1 inch). Với những thông số này, Yamato có thể đánh bại mọi chiếc thiết giáp hạm khác trong các trận đấu một chọi một. Nhưng không may cho Yamato và các thiết giáp hạm nói chung, đó là chúng đã trở nên lỗi thời trước một loại tàu chiến mới là tàu sân bay. Máy bay ném bom từ tàu sân bay có thể tấn công một tàu chiến trong phạm vi vài trăm km, vượt xa tầm bắn của đại bác trên thiết giáp hạm (chỉ khoảng 40 km). Với chi phí đắt gấp 2,5 lần so với một tàu sân bay, Yamato đã khiến nền công nghiệp quốc phòng Nhật Bản hao tổn rất nhiều nguồn lực, nhưng hiệu quả tác chiến của nó lại rất thấp so với tàu sân bay.

Được chế tạo từ năm 1937 đến năm 1940 và được chính thức đưa vào hoạt động vào cuối năm 1941, Yamato đã phục vụ như là soái hạm của Đô đốc Isoroku Yamamoto trong suốt năm 1942, lần đầu tiên hoạt động như một thành phần của Hạm đội Liên hợp trong trận Midway vào tháng 6 năm 1942. Trong suốt năm 1943, Yamato liên tục di chuyển giữa các căn cứ Truk, Kure và Brunei để đối phó lại các cuộc không kích của Mỹ xuống các hòn đảo căn cứ Nhật Bản. Lần duy nhất mà Yamato nã các khẩu pháo chính của nó xuống tàu chiến đối phương là trong trận chiến ngoài khơi Samar vào tháng 10 năm 1944, nhưng nó được chỉ thị phải rút lui sau khi các đợt tấn công của các tàu khu trục và máy bay trên các tàu sân bay hộ tống gây hư hại cho ba tàu tuần dương hạng nặng. Yamato bị đánh chìm vào tháng 4 năm 1945 trong Cuộc hành quân Ten-Go. Cho tới nay, đây vẫn là con tàu chiến lớn nhất từng bị đánh chìm trong 1 cuộc chiến tranh.

Thiết kế và chế tạo

Thiết kế

trái|nhỏ|Yamato đang được chế tạo Yamato là chiếc dẫn đầu trong lớp "thiết giáp hạm hạng nặng" của nó, được Hải quân Đế quốc Nhật Bản thiết kế vào năm 1937. Lớp thiết giáp hạm này được thiết kế để có thể giáp chiến với nhiều mục tiêu đối phương cùng một lúc, một giải pháp bù trừ cho tiềm năng công nghiệp yếu kém của Nhật Bản so với Hải quân Hoa Kỳ. Cùng với những tàu chiến lớp Yamato mỗi chiếc có lượng rẽ nước trên 70.000 tấn, họ hy vọng rằng hỏa lực mạnh mẽ của những thiết giáp hạm được chế tạo sẽ bù đắp cho sức mạnh công nghiệp Hoa Kỳ. Mỗi khẩu pháo dài 21,13 m (69 ft 4 in), nặng 147,3 tấn, có khả năng bắn đầu đạn miểng hay đạn xuyên giáp đi một khoảng cách 42 km (22,6 hải lý). Dàn pháo hạng hai bao gồm 12 khẩu 155 mm (6,1 inch) bố trí thành bốn tháp súng ba nòng (một phía trước, một giữa, hai phía sau tàu), 24 khẩu 127 mm (5 inch),

Lịch sử hoạt động

1942: Chạy thử máy và các hoạt động ban đầu

Ngày 16 tháng 12 năm 1941, Yamato được chính thức đưa vào hoạt động tại Kure, Đại tá Hải quân (sau này là Phó Đô đốc) Gihachi Takayanagi nhận chức chỉ huy con tàu; nó gia nhập cùng các thiết giáp hạm đàn em NagatoMutsu trong thành phần Thiết giáp chiến đội 1 cùng ngày hôm đó. Trong trận chiến then chốt này, Yamamoto nắm quyền chỉ huy chung lực lượng tấn công từ cầu tàu chiếc Yamato.

1944: Chiến đấu

nhỏ|phải|Sơ đồ chiếc Yamato như nó hiện hữu trong những năm [[1944-1945.]] Ngày 16 tháng 1 năm 1944, Yamato về đến Kure để được sửa chữa triệt để, và nó ở trong ụ tàu cho đến ngày 3 tháng 2 năm 1944. Trong thời gian nằm ụ, Đại tá Hải quân Nobuei Morishita, nguyên là Thuyền trưởng chiếc tàu chiến - tuần dương Haruna, tiếp nhận quyền chỉ huy chiếc Yamato. Khi những tin tức đến được Ozawa về một lực lượng tàu sân bay Mỹ dự định tấn công quần đảo Mariana, nhiệm vụ trên bị hủy bỏ. Hơn 400 máy bay Nhật Bản đã bị mất trong trận này, cùng với ba tàu sân bay bị đánh chìm bởi tàu ngầm và do không kích. Cơ hội nổ súng duy nhất của chiếc Yamato trong suốt trận đánh trớ trêu thay lại là bắn nhầm vào máy bay Nhật đang quay trở về. Trên đường đi, lực lượng bị tấn công tại eo biển Palawan bởi các tàu ngầm Mỹ DarterDace. Chỉ với ngư lôi, chúng đã đánh chìm các tàu tuần dương MayaAtago (soái hạm của Kurita), và gây hư hại cho chiếc Takao. Lúc mở đầu trận chiến ngoài khơi Samar, Yamato giáp chiến cùng lực lượng tàu nổi đối phương lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất trong quãng đời hoạt động của nó, bắn trúng đích một tàu sân bay hộ tống, một tàu khu trục và một tàu khu trục hộ tống. Sau khi pháo kích trúng đích chiếc tàu sân bay hộ tống Gambier Bay, Yamato phát hiện một loạt các ngư lôi Mỹ đang nhắm vào nó, và chiếc thiết giáp hạm buộc phải quay lui và không thể quay trở lại trận chiến. Ngày 15 tháng 11 năm 1944, Thiết giáp chiến đội 1 bị giải tán, và Yamato trở thành soái hạm của Hạm đội 2. nhóm chiến đấu của Yamato bị tàu ngầm Sealion tấn công, khiến thiết giáp hạm Kongo và nhiều tàu khu trục bị mất. Khi về đến Kure, Yamato được đưa vào ụ tàu để sửa chữa và nâng cấp hệ thống phòng không, khi nhiều súng phòng không kiểu cũ được thay thế. Vào ngày 25 tháng 11, Đại tá Hải quân Aruga Kosaku tiếp nhận quyền chỉ huy chiếc Yamato. Tuy nhiên, chiếc thiết giáp hạm chỉ bị thiệt hại nhẹ, Trong khi đi ngang qua eo biển Bungo, Yamato và các tàu hộ tống bị các tàu ngầm Mỹ ThreadfinHackleback phát hiện, cả hai đã thông báo cho Lực lượng Đặc nhiệm TF 58 về vị trí và hướng đi của Yamato. Chiếc thiết giáp hạm lớn nhất thế giới đã bị đánh chìm ở tọa độ ; và đã có 2.498 người trong tổng số 2.700 thành viên thủy thủ đoàn trên chiếc Yamato thiệt mạng, bao gồm Phó Đô đốc Seiichi Itō, tư lệnh Đệ nhị hạm đội và hạm trưởng Yamato Kōsaku Aruga.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_Yamato_** (), tên được đặt theo vùng đất nay là tỉnh Nara của Nhật Bản, là một thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Thế Chiến II, và là soái hạm
**_Nagato_** (tiếng Nhật: 長門, **_Trường Môn_**), được đặt theo tên tỉnh Nagato, là một thiết giáp hạm siêu-dreadnought được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản. _Nagato_ là chiếc thiết giáp hạm đầu
**_Kongō_** (tiếng Nhật: 金剛, Kim Cương) là chiếc tàu chiến-tuần dương đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc kiểu siêu-Dreadnought, là chiếc dẫn đầu của lớp Kongō bao gồm những chiếc _Hiei_,
Mutsu (thiết giáp hạm nhật) **_Mutsu_** (tiếng Nhật: 陸奥), được đặt tên theo tỉnh Mutsu, là chiếc thiết giáp hạm thứ hai thuộc lớp _Nagato_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Được đưa vào
nhỏ|HMS Dreadnought **Thiết giáp hạm** ()là một loại tàu chiến lớn được bọc thép dày với dàn hỏa lực chính bao gồm pháo có cỡ nòng rất lớn (trên 300mm). Thiết giáp hạm là loại
**_Musashi_** (tiếng Nhật: 武蔵, _Vũ Tàng_), tên được đặt theo tên một tỉnh cũ của Nhật Bản, là một thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Thế Chiến II, và là
**_Hiei_** (tiếng Nhật: 比叡) là một thiết giáp hạm thuộc lớp _Kongō_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, được đặt tên theo đỉnh núi Hiei ở phía Đông Bắc Kyoto. Trước năm 1940, nó
**_Hyūga_** (tiếng Nhật: 日向), được đặt tên theo tỉnh Hyūga trên đảo Kyūshū, là một thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp _Ise_. ## Thiết kế và chế tạo _Hyūga_
nhỏ|350x350px|_Yamato_ và _Musashi_, hai [[thiết giáp hạm lớn nhất từng được xây dựng.]] Vào cuối thế kỷ 19, chiến lược của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được dựa trên triết lý hải quân Jeune
**IJN Yamato** () là những thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được chế tạo và hoạt động trong Thế chiến thứ hai. Với trọng lượng rẽ nước khi đầy tải lên
, thường được gọi là **_lớp Siêu Yamato_**, là lớp thiết giáp hạm được lên kế hoạch cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Để phù hợp với chiến lược chiến tranh của Hải quân
phải|nhỏ| là thiết giáp hạm hiệp ước đầu tiên **Thiết giáp hạm hiệp ước** là những thiết giáp hạm được chế tạo vào những năm 1920 hoặc 1930 theo các điều khoản của một trong
**Lớp thiết giáp hạm _Montana**_ là một lớp thiết giáp hạm được vạch kế hoạch cho Hải quân Hoa Kỳ nhằm nối tiếp lớp _Iowa_; sẽ chậm hơn nhưng lớn hơn, có vỏ giáp tốt
**Lớp thiết giáp hạm _Nagato**_ (tiếng Nhật: 長門型戦艦; Rōmaji: _Nagato-gata senkan_; phiên âm Hán-Việt: _Trường Môn hình chiến hạm_) bao gồm hai thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản hoạt động từ
**_Shinano_** (tiếng Nhật: 信濃) là một tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Thế Chiến II. Tên nó được đặt theo tỉnh Shinano, một tỉnh cũ của Nhật Bản. Ban đầu
**Hải quân Đế quốc Nhật Bản** (kanji cổ: 大日本帝國海軍, kanji mới: 大日本帝国海軍, romaji: _Dai-Nippon Teikoku Kaigun_, phiên âm Hán-Việt: **_Đại Nhật Bản Đế quốc Hải quân_**), tên chính thức **Hải quân Đế quốc Đại Nhật
Đế quốc Nhật Bản. Cho tới trước khi [[Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, thuộc địa của Nhật tại vùng Đông Á đã tăng gấp gần **5 lần** diện tích quốc gia]] là
thumb|, thiết giáp hạm dreadnought cũ nhất còn lại cho đến hôm nay, được hạ thủy vào năm 1912 và hiện là một tàu bảo tàng **Dreadnought** (tiếng Anh có khi còn được viết là
**USS _West Virginia_ (BB-48)** (tên lóng "Wee Vee"), là một thiết giáp hạm thuộc lớp _Colorado_, và là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này nhằm tôn
là một hạm đội của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Đây là hạm đội không thường trực, được thành lập trên cơ sở ít nhất 2 hạm đội thường trực. Hải quân Nhật gọi
**USS _South Dakota_ (BB-57)** là một thiết giáp hạm được Hải quân Hoa Kỳ đưa ra hoạt động từ năm 1942 đến năm 1947. Là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó, _South Dakota_ là
**Lịch sử Hải quân Nhật Bản** bắt đầu với sự tương tác với các quốc gia trên lục địa châu Á thiên niên kỷ 1, đạt đỉnh cao hoạt động hiện đại vào thế kỷ
**Trận Okinawa** (tiếng Anh: Battle of Okinawa, tiếng Nhật: 沖縄戦, Okinawa-sen), hay còn gọi là **chiến dịch Iceberg** (**chiến dịch Băng Sơn**) là trận đánh thuộc mặt trận Thái Bình Dương trong Chiến tranh thế
**Lịch sử quân sự Nhật Bản** mô tả cuộc chiến tranh phong kiến kéo dài nhằm tiến tới việc ổn định trong nước, sau đó cùng với việc viễn chinh ra bên ngoài cho tới
**_Yahagi_** (tiếng Nhật: 矢矧) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Agano_ đã phục vụ cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. _Yahagi_ đã bị máy
thumb|Quân xưởng Hải quân Kure, 1945 là một trong bốn nhà máy đóng tàu hải quân chính được sở hữu và điều hành bởi Hải quân Đế quốc Nhật Bản. ## Lịch sử thumb|Thiết giáp
Tên tàu Nhật tuân theo các quy ước khác nhau từ những quy ước điển hình ở phương Tây. Tên tàu buôn thường chứa từ _maru_ ở cuối (nghĩa là _vòng tròn_), trong khi tàu
**Hiệp ước Hải quân Washington**, còn được gọi là **Hiệp ước Năm cường quốc** là một hiệp ước được ký kết vào năm 1922 trong số các quốc gia lớn đã thắng Thế chiến thứ
**USS _North Carolina_ (BB-55)** là một thiết giáp hạm của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm hai chiếc, và là chiếc thiết giáp hạm mới đầu tiên
**USS _Maryland_ (BB-46)** (Fighting Mary) là một thiết giáp hạm của Hải quân Hoa Kỳ hoạt động trong Thế chiến II. Nó thuộc lớp _Colorado_, và là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân
**_Noshiro_** (tiếng Nhật: 能代) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Agano_ đã phục vụ cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó bị máy bay
Đây là danh sách các tàu chiến thuộc Đế quốc Nhật Bản. ## Tàu chiến trung cổ * Atakebune, Tàu chiến cận bờ thế kỉ 16. * Châu Ấn Thuyền – Khoảng 350 tàu buồm
**_Sakawa_** (tiếng Nhật: 酒匂) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Agano_ đã phục vụ cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên của nó được
**_Hatsushimo_** (tiếng Nhật: 初霜) là một tàu khu trục hạng nhất thuộc lớp _Hatsuharu_ bao gồm sáu chiếc của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, được chế tạo trong những năm 1931-1933. _Hatsushimo_ đã tham
**_Yamagumo_** (tiếng Nhật: 山雲) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp tàu khu trục _Asashio_ bao gồm mười chiếc được chế tạo vào giữa những năm
**HMS _Barham_ (04)** là một thiết giáp hạm thuộc lớp _Queen Elizabeth_ của Hải quân Hoàng gia Anh. Được đưa vào hoạt động vào lúc Chiến tranh Thế giới thứ nhất bùng nổ, nó từng
**_Tone_** (tiếng Nhật: 利根) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó vốn bao gồm cả chiếc _Chikuma_. Tên của nó
**_Ōyodo_** (tiếng Nhật: 大淀), là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc duy nhất trong lớp của nó. Tên của nó được đặt theo sông Ōyodo tại
**Suzuya** (tiếng Nhật: 鈴谷 S_uzuya_) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ ba trong tổng số bốn chiếc thuộc lớp _Mogami_. Tên của nó được
**_Myōkō_** (tiếng Nhật: 妙高) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm bốn chiếc; những chiếc còn lại trong
**_Kumano_** (tiếng Nhật: 熊野) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc cuối cùng trong tổng số bốn chiếc thuộc lớp _Mogami_. _Kumano_ từng hoạt động trong
phải|Tàu khu trục _Ushio_ nhìn bên mạn tàu **_Ushio_** (tiếng Nhật: 潮) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn chiếc,
nhỏ|phải|Các tàu khu trục [[Shigure (tàu khu trục Nhật)|_Shigure_ và _Samidare_ hoạt động ngoài khơi bờ biển Bougainville trong quần đảo Solomon, vài giờ trước trận Hải chiến Vella Lavella vào ngày 7 tháng 10
**_Kitakami_** (tiếng Nhật: 北上) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Kuma_ từng hoạt động cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên của nó được
**_Mikuma_** (tiếng Nhật: 三隈) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ hai trong tổng số bốn chiếc thuộc lớp _Mogami_. Tên của nó được đặt
**_Shōkaku_** (, nghĩa là _Chim hạc bay liệng_) là một tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, và tên của nó được đặt cho lớp tàu này. Cùng với chiếc tàu chị
**_Sazanami_** (tiếng Nhật: 漣) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn chiếc, được chế tạo sau khi Chiến tranh Thế
**_Hatsukaze_** (tiếng Nhật: 初風) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp _Kagerō_ đã phục vụ tại Mặt trận Thái Bình Dương trong Chiến tranh Thế giới
**_Akebono_** (tiếng Nhật: 曙) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn chiếc, được chế tạo sau khi Chiến tranh Thế
**_Kiso_** (tiếng Nhật: 木曽) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ năm và là chiếc cuối cùng trong lớp _Kuma_ class, và đã từng hoạt