✨Hải chiến ngoài khơi Samar
Hải chiến ngoài khơi Samar hay Trận Samar là trận đánh mang tính quan trọng trong thời gian diễn ra cuộc Hải chiến vịnh Leyte, một trong những trận hải chiến lớn nhất trong lịch sử, diễn ra ngoài khơi đảo Samar, thuộc Biển Philippines vào ngày 25 tháng 10 năm 1944. Đó là trận đánh duy nhất trong toàn bộ chuỗi trận đánh ở vịnh Leyte mà người Mỹ hoàn toàn không có sự chuẩn bị từ trước. Trận chiến ngoài khơi Samar được các nhà sử học coi là một trong những trận hải chiến không cân sức vĩ đại nhất trong lịch sử hải quân thế giới; với chiến thắng hoàn toàn của người Mỹ trước Lực lượng Trung tâm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản dưới sự chỉ huy của Phó Đô đốc Kurita Takeo - mặc dù họ chịu thương vong rất nặng và bị áp đảo hoàn toàn về lực lượng.
Đô đốc William Halsey Jr. cùng với Đệ Tam Hạm đội hùng mạnh đã trúng bẫy của người Nhật và bị một hạm đội của Phó đô đốc Jisaburō Ozawa nhử kéo toàn bộ tàu chiến dưới quyền chỉ huy của ông ra khỏi khu vực. Những đơn vị còn lại của người Mỹ là ba đội hàng không mẫu hạm hộ tống của Đệ Thất Hạm đội. Những chiếc hàng không mẫu hạm hộ đống và khu trục hộ tống hạm, vốn có tốc độ chậm và lớp giáp mỏng, được đóng với vai trò bảo vệ các đoàn tàu vận tải, hậu cần khỏi mối đe dọa của tàu ngầm và tấn công các mục tiêu mặt đất. Chúng mang rất ít ngư lôi chống hạm và phần lớn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của Halsey.
Một lực lượng thiết giáp hạm và tuần dương hạm của Nhật Bản - dẫn đầu bởi thiết giáp hạm Yamato, con tàu lớn nhất và được trang bị pháo cỡ lớn nhất từng được hạ thủy trong lịch sử - đã bị đánh bại trong trận chiến trước đó và được cho là đã rút lui khỏi khu vực. Nhưng khác với suy nghĩ của người Mỹ, hạm đội đó đã quay đầu mà không bị phát hiện và chạm trán với một đội tàu ở phía Bắc, thuộc Đơn vị Đặc nhiệm 77.4.3 ("Taffy 3"), do Chuẩn Đô đốc Clifton Sprague chỉ huy. Ba khu trục hạm và bốn khu trục hộ tống hạm của Taffy 3, không đủ hỏa lực cũng như giáp không đủ mạnh để chống lại 23 tàu chiến thuộc lực lượng hùng mạnh của Nhật Bản. Nhưng những con tàu vẫn tấn công với các khẩu pháo cỡ nòng 5-inch (127 mm) và ngư lôi để yểm trợ cho các hàng không mẫu hạm hộ tống chậm chạp của họ rút lui. Máy bay từ những hàng không mẫu hạm của Taffy 1, 2 và 3, bao gồm những chiếc FM-2 Wildcat, F6F Hellcat và TBF Avenger, đã tấn công đánh lạc hướng, ném bom, phóng ngư lôi, phóng tên lửa, bom chống ngầm và thậm chí đã thực hiện nhiều cuộc tấn công giả vào tàu của Nhật Bản sau khi sử dụng hết toàn bộ đạn dược.
Taffy 3 mất hai hàng không mẫu hạm hộ tống, hai khu trục hạm, một khu trục hộ tống hạm và nhiều máy bay. Hơn 1.000 lính Mỹ tử trận, cao hơn mức thương vong của người Mỹ tại Biển San Hô và Midway cộng lại. Đổi lại, ba tuần dương hạm hạng nặng của người Nhật bị đánh chìm, ba chiếc khác bị hư hỏng nặng và tạo thế hỗn loạn đến mức khiến Phó Đô đốc Kurita phải ra lệnh rút lui khỏi khu vực, thay vì tiếp tục tiến lên và tấn công đội tàu vận tải của Mỹ tại vịnh Leyte. Thương vong ở Samar chiếm đến một nửa trong tổng số thương vong của người Mỹ trong suốt toàn bộ chiến dịch ở vịnh Leyte. Dù Yamato cùng các tàu còn lại rút lui thành công về Nhật Bản, cuộc chiến này đã đánh dấu sự thất bại hoàn toàn của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, khi phần lớn số tàu còn lại đều lưu lại ở các cảng trong giai đoạn cuối của cuộc chiến, không còn tỏ ra hiệu quả như trước.
Bối cảnh
Chiến lược tổng thể của Nhật Bản tại Vịnh Leyte - được biết qua mật danh Shō-Go 1 - là dùng Lực lượng phương Bắc của Phó Đô đốc Jisaburō Ozawa để dụ Đệ Tam Hạm đội của Hoa Kỳ ra khỏi khu vực các bãi đổ bộ của Đồng minh ở Leyte, bằng việc sử dụng lực lượng các hàng không mẫu hạm của Nhật Bản làm mồi nhử. Lực lượng đổ bộ, khi mất đi Đệ Tam Hạm đội cùng bức màn phòng thủ trên không, sau đó sẽ bị tấn công từ phía tây và nam bởi Lực lượng Trung tâm của Phó Đô đốc Kurita Takeo, lực lượng này sẽ xuất kích từ Brunei và Lực lượng phía Nam của Phó Đô đốc Nishimura Shōji. Lực lượng Trung tâm của Kurita, với năm thiết giáp hạm, bao gồm Yamato và Musashi - những thiết giáp hạm lớn nhất từng được chế tạo, được hộ tống bởi các tuần dương hạm và khu trục hạm. Đội tàu của Nishimura bao gồm hai thiết giáp hạm và được theo sau bởi đội tàu của Phó Đô đốc Kiyohide Shima với ba tuần dương hạm.
Vào đêm ngày 23 tháng 10, các tàu ngầm Dace và Darter của Mỹ đã phát hiện ra Lực lượng Trung tâm đang tiến vào hành lang Palawan. Sau khi báo động cho Halsey, các tàu ngầm đã phóng ngư lôi và đánh chìm hai tuần dương hạm, đồng thời làm hư hại chiếc thứ ba và buộc nó phải rút lui. Một trong những tuần dương hạm bị mất là kỳ hạm của Đô đốc Kurita, nhưng ông đã được vớt khỏi mặt nước và chuyển cờ hạm của mình sang Yamato.
Các mẫu hạm của Đệ Tam Hạm đội đã tiến hành một loạt các cuộc không kích nhằm vào lực lượng của Kurita trên Biển Sibuyan, làm hư hại một số tàu và đánh chìm Musashi, ban đầu buộc Kurita phải rút lui. Một tốp sóng máy bay từ Đệ Tam Hạm đội cũng tấn công Lực lượng phía Nam của Nishimura, chỉ gây thiệt hại nhẹ. Cùng lúc đó, Phó Đô đốc Onishi Takijiro đã tiến hành các cuộc tấn công từ các sân bay trên Luzon chống lại lực lượng của Halsey, với một máy bay ném bom đã trúng hàng không mẫu hạm hạng nhẹ Princeton, khiến con tàu bị hư hại rất nặng và chìm sau những nỗ lực cứu vớt không thành.
Cùng đêm đó, Lực lượng phía Nam của Nishimura gồm hai thiết giáp hạm, một tuần dương hạm hạng nặng và bốn khu trục hạm sẽ tiếp cận từ phía nam và sẽ phối hợp với lực lượng của Kurita. Thành phần thứ hai của Lực lượng phía Nam, do Phó Đô đốc Kiyohide Shima chỉ huy, bao gồm ba tuần dương hạm và bảy khu trục hạm, đã tụt lại phía sau Nishimura đến 74 km. Trong trận chiến ở Eo biển Surigao, tàu của Nishimura đã lọt vào một cái bẫy đã được người Mỹ dang sẵn từ trước. Bị Lực lượng Hỗ trợ thuộc Đệ Thất Hạm đội Hoa Kỳ áp đảo hoàn toàn, họ chịu thương vong rất nặng, bị một loạt ngư lôi từ 28 tàu PT và 28 khu trục hạm tấn công trước khi phải hứng chịu những phát pháo chính xác từ sáu thiết giáp hạm (năm trong số chúng sống sót sau cuộc đột kích Trân Châu Cảng) và tám tuần dương hạm. Sau đó, khi lực lượng của Shima hội quân với những gì còn lại của của Nishimura, họ cũng bị người Mỹ tấn công, nhưng may mắn rút lui được. Trong số bảy tàu ban đầu của Nishimura, chỉ có một khu trục hạm sống sót.
Trong trận chiến tại Biển Sibuyan, Đệ Tam Hạm đội của Halsey đã tấn công Lực lượng Trung tâm của Kurita. Lực lượng này đã bị phát hiện khi đang trên đường đến vị trị neo đậu của các lực lượng đổ bộ của người Mỹ từ phía bắc. Lực lượng Trung tâm không có bất kỳ sự hỗ trợ nào trên không để chống lại 259 máy bay từ năm hàng không mẫu hạm Intrepid, Essex, Lexington, Enterprise, Franklin, và hàng không mẫu hạm hạng nhẹ Cabot. Cuộc tấn công tổng lực này đã đánh chìm thiết giáp hạm Musashi với 17 quả bom và 19 quả ngư lôi. Dù bị tấn công liên tục và chịu thiệt hại nặng nề, nhưng ngay cả lực lượng áp đảo đó cũng không thể ngăn cản được Kurita, vì hầu hết các cuộc tấn công đều nhắm vào một thiết giáp hạm duy nhất (Musashi). Ngoài việc một tuần dương hạm bị ngư lôi làm hư hỏng nặng, mọi tàu khác bao gồm cả Yamato vẫn còn đủ khả năng để chiến đấu.
Đệ Tam Hạm đội của Halsey đã bỏ lỡ trận chiến quan trọng nhất và tham gia vào trận chiến ngoài khơi Mũi Engaño, với Lực lượng phương Bắc của Ozawa, bao gồm một hàng không mẫu hạm chủ lực và ba hàng không mẫu hạm hạng nhẹ. với tổng cộng 108 máy bay, hai thiết giáp hạm, ba tuần dương hạm hạng nhẹ và chín khu trục hạm. Halsey tin rằng Lực lượng phương Bắc là mối đe dọa chính, đúng như mong đợi của người Nhật trong kế hoạch của họ. Halsey đã điều ba nhóm của Lực lượng Đặc nhiệm 38, vốn áp đảo hoàn toàn Lực lượng Phương Bắc của Ozawa, với năm hàng không mẫu hạm chủ lực, năm hàng không mẫu hạm hạng nhẹ. cùng với hơn 600 máy bay, sáu thiết giáp hạm, tám tuần dương hạm và hơn 40 khu trục hạm đi truy đuổi Ozawa. Halsey không nhận ra rằng ông đã điều một lực lượng lớn đi chỉ để tấn công một hạm đội mà sau đó được biết là mồi nhử vô hại.
Quyết định của Halsey đã mở rộng cánh cửa cho Kurita vào vịnh Leyte. Ban đầu khi Kurita rút lui, người Mỹ cho rằng lực lượng Nhật Bản đang rút lui hẳn khỏi trận chiến. Cuối cùng, Kurita quay lại và đi qua Eo biển San Bernardino dưới sự che trở của màn đêm một cách an toàn, với ý định tiêu diệt lực lượng đổ bộ của Mỹ. Chỉ có những đội Taffy, có nhiệm vụ hỗ trợ cho lực lượng đổ bộ của Đệ Thất Hạm đội, là chắn đường Kurita. Đội tàu này vốn chỉ được trang bị vũ khí để tấn công các mục tiêu trên mặt đất và tàu ngầm dưới sự bảo vệ của các mẫu hạm thuộc hạm đội của Halsey, chứ không phải đối đầu với các thiết giáp hạm và tuần dương hạm của Kurita. Sai lầm của Halsey đã dẫn đến một trận chiến không cân sức nhưng hào hùng của những con tàu mỏng manh, nhỏ bé suốt ba giờ đồng hồ với hạm đội hùng mạnh của Kurita.
Lực lượng hai bên
Nhật Bản
nhỏ|Lực lượng Trung Tâm đang rời vịnh Brunei, Borneo để tới Philippines, ngày 22 tháng 10 năm 1944. Lực lượng Trung Tâm của Kurita bao gồm thiết giáp hạm Yamato, Nagato, Kongō và Haruna; tuần dương hạm hạng nặng Chōkai, Haguro, Kumano, Suzuya, Chikuma, Tone; tuần dương hạm hạng nhẹ Yahagi và Noshiro; 11 khu trục hạm lớp Kagerō, Yūgumo và Shimakaze. Dù không có bất kỳ hàng không mẫu hạm nào, lực lượng này có trang bị hệ thống máy phóng với số lượng thủy phi cơ tương đối, ví dụ Yamato mang đến bảy thủy phi cơ. Trong trận đánh này, người Nhật cũng sử dụng các đội bay Thần phong làm nhiệm vụ tấn công tự sát. Các đội thiết giáp hạm và tuần dương hạm được trang bị pháo hạm áp đảo hoản toàn những khẩu pháo 5-inch (127 mm) của Taffy 3. Yamato có chín khẩu pháo 18,1-inch (460 mm), có tầm bắn đến 40 km. Hệ thống pháo được ngắm bắn bằng hệ thống kính ngắm quang học có sự trợ giúp của hệ thống điện tử, dù chúng vẫn kém hiệu quả hơn so với hệ thống dẫn bắn bằng radar tích hợp trên các khu trục hạm của người Mỹ.
Ngoài ra, nhiều tàu Nhật còn trang bị ngư lôi Type 93 Long Lance. Type 93 được coi là loại ngư lôi tân tiến nhất thế giới lúc đó - có tầm phóng gấp đôi ngư lôi của phe Đồng Minh và không tạo vệt bong bóng trên mặt nước. Hải quân Nhật coi chúng là thứ vũ khí mang tính quyết định. Ngư lôi của họ dùng oxy nén thay vì không khí nén thông thường trong hệ thống đẩy. Tuy nhiên, Type 93 dễ bị kích nổ hơn do dễ chịu tác động của sóng xung kích hơn các loại ngư lôi khác, dễ gây thiệt hại cho những con tàu mang chúng.
Hoa Kỳ
Nhóm Đặc nhiệm 77.4 của Đệ Thất Hạm đội bao gồm ba Đơn vị Đặc nhiệm nhỏ, mỗi nhóm có sáu mẫu hạm hộ tống lóp Casablanca hoặc Sangamon, được bảo vệ bởi các đội khu trục hạm và khu trục hộ tống hạm. Các tàu khu trục được trang bị năm khẩu pháo 5-inch (127 mm), khu trục hộ tống hạm có hai khẩu và mẫu hạm hộ tống chỉ có duy nhất một khẩu được lắp đặt ở đuôi tàu. Phần lớn các phi công và thủy thủ đều thuộc lực lựong Dự bị của Hải quân với ít kinh nghiệm trận mạc, và do nhiệm vụ của họ phần lớn là săn ngầm và tấn công các lực lượng mặt đất, các đội mẫu hạm chỉ được trang bị số ít bom và ngư lôi chống hạm vì ít có khả năng họ bị đội tàu mặt nước của địch tấn công.
Với việc không có tàu nào trang bị pháo có tầm bắn hơn 16 km, Taffy 3 dễ dàng bị áp đảo bởi pháo của người Nhật, vốn có tầm bắn xa và cỡ nòng lớn. Trận đánh cũng đồng thời chỉ ra rằng hệ thống dẫn bắn tự động của Hải quân Nhật Bản không thực sự hiệu quả khi tấn công các mục tiêu di động ở khoảng cách xa dù một vài con tàu như Kongō đã bắn trúng mục tiêu. Dù tàu chiến của Nhật Bản khai hỏa ở khoảng cách khá xa và trúng vài mục tiêu, và chỉ bắn gần trúng thôi cũng đủ để gây một số thiệt hại cho đội tàu của người Mỹ, hỏa lực của họ chỉ thực sự hiệu quả khi họ đi vào tầm bắn của các mẫu hạm hộ tống. Ngược lại, các khu trục hạm của Mỹ có hệ thống dẫn bắn Mark 37 có khả năng lấy đường ngắm tự đông và bắn trúng nhiều mục tiêu một cách hiệu quả khi đang di chuyển liên tục. Sự lạc hậu của hệ thống điệu tử Nhật Bản còn được đề cập trong các báo cáo của phi công Mỹ sau trận đánh, khi hỏa lực cao xạ của người Nhật không thật sự hiệu quả khi đối đầu với máy bay Mỹ.
-
Đơn vị Đặc nhiệm 77.4.1 ("Taffy 1") của Chuẩn Đô đốc Thomas L. Sprague bao gồm các hàng không mẫu hạm hộ tống thuộc Hải đội Hàng không mẫu hạm 22 (CarDiv 22) là Sangamon, Suwannee, Santee và Petrof Bay. (hai hàng không mẫu hạm hộ tống còn lại của Taffy 1, Chenango và Saginaw Bay, đã rời đến Morotai thuộc Đông Ấn Hà Lan vào ngày 24 tháng 10 để sửa chữa và thay thế máy bay hỏng. Chúng quay trở lại với số máy bay mới sau khi trận đánh kết thúc).
-
Đơn vị Đặc nhiêm 77.4.2 ("Taffy 2") của Chuẩn Đô đốc Felix Stumps bao gồm hàng không mẫu hạm hộ tống Natoma Bay và Manila Bay thuộc Hải đội Hàng không mẫu hạm 24 (CarDiv 24), và Marcus Island, Kadashan Bay, Savo Island và Ommaney Bay thuộc Hải đội Hàng không mẫu hạm 27 (CarDiv 27) của Chuẩn Đô đốc William D. Sample.
-
Đơn vị Đặc nhiệm 77.4.3 ("Taffy 3") của Chuẩn Đô đốc Clifton Sprague bao gồm các hàng không mẫu hạm Fanshaw Bay, St. Lo, White Plains, Kalinin Bay thuộc Hải đội Hàng không mẫu hạm 25 (CarDiv 25) và các mẫu hạm Kitkun Bay và Gambier Bay thuộc Hải đội Hàng không mẫu hạm 26 (CarDiv 26) của Chuẩn Đô đốc Ralph A. Ofstie. Lực lượng hộ tống của Taffy 3 bao gồm khu trục hạm Hoel, Johnston và Heermann, và khu trục hộ tống hạm Dennis, John C. Butler, Raymond và Samuel B. Robert.
Mỗi mẫu hạm hộ tống chỉ mang số lượng máy bay nhỏ là khoảng 28 chiếc, nên 16 chiếc CVE của cả ba "Taffy" mang tổng cộng hơn 450 chiếc máy bay, tương đương với số máy bay của năm mẫu hạm chủ lực. Tốc độ tối đa của chúng chỉ đạn 32.4 km/h để phù hợp với việc hộ tống các đoàn vận tải hoặc cung cấp hỏa lực hỗ trợ mặt đất, chúng quá chậm để tấn công hoặc rút lui khỏi các hải đội đột kích của kẻ thù. Máy bay của chúng có nhiệm vụ tấn công các mục tiêu mặt đất, phòng không và chống ngầm, nên chúng chỉ được trang bị súng máy, bom chống ngầm, bom nổ mảnh và bom gây sát thương đối với con người, chỉ hiệu quả với các mục tiêu như binh lính địch, máy bay, tàu ngầm hoặc khu trục hạm, nhưng không thực sự hiệu quả khi phải đối đầu với các thiết giáp hạm và tuần dương hạm vi lớp giáp kiên cố. Trong trận đánh, các phi công của Taffy 2 đã có đủ thời gian để bay đến các căn cứ Không lực Lục quân Hoa Kỳ ở Philippines để nạp lại bom, ngư lôi chống hạm, để có thể tấn công các tàu chiến Nhật hiệu quả hơn
Trận đánh
Lực lượng của Kurita đi qua Eo Biển San Bernardino lúc 03:00 ngày 25 tháng 10 năm 1944 và tiến về phía nam dọc bờ biển của đảo Samar, mong rằng hạm đội của Halsey đã mắc bẫy và kéo toàn bộ hạm đội của ông ra khỏi Leyte, và đúng là như vậy. Kurita nhận được tin báo rằng hạm đội của Nishimura đã bị hủy diệt hoàn toàn ở Eo Biển Surigao và sẽ không gia nhập hạm đội của ông ở vịnh Leyte. Nhưng Kurita không hề nhận được bất cứ thông tin nào về Đội Phía Bắc của Ozawa rằng họ đã thành công trong việc nhử toàn bộ mẫu hạm chủ lực và thiết giáp hạm thuộc Đệ Tam Hạm đội của Halsey ra khỏi Leyte. Trong suốt trận đánh, Kurita luôn đau đầu về vị trí thực sự của Halsey. Gió thổi theo hướng Bắc-Đông Bắc, tầm nhìn xa đạt khoảng 37 km, trời u ám và thỉnh thoảng có mưa lớn và đó chính là yếu tố mà người Mỹ sẽ khai thác triệt để vào trận đánh sắp tới.
Taffy 3 bị tấn công
phải|nhỏ|427x427px|Bản đồ diễn biến trận đánh. Sau khi di chuyển khoảng 110 km về phía đông Samar trước bình minh ngày 25 tháng 10, St. Lo bắt đầu phóng bốn máy bay làm nhiệm vụ tuần tra và săn ngầm trong đó những mẫu hạm còn lại của Taffy 3 đang chuẩn bị cho các phi vụ không kích hỗ trợ đổ bộ trên các bãi biển. Lúc 06:37, Thiếu úy William C. Brooks - phi công một chiếc Grumman TBF Avenger thuộc đội bay của St. Lo, đã phát hiện một hạm đội lớn mà lúc đầu được cho là thuộc Đệ Tam Hạm đội của Halsey, nhưng thực chất chúng chính là những con tàu của người Nhật. Khi anh báo về hạm đội, đô đốc Sprague không tin điều đó và yêu cầu xác nhận cụ thể hơn. Bay tới gần hơn để quan sát, Brooks báo lại một thông tin đáng sợ, "Tôi có thể thấy các tháp chùa. Tôi có thể thấy chấm đỏ tròn trên một lá cờ to nhất trên chiếc thiết giáp hạm to nhất mà tôi từng thấy!". Yamato nặng hơn toàn bộ tải trọng của toàn bộ tàu thuộc Taffy 3 cộng lại. Brooks đã phát hiện ra lực lượng hùng mạnh nhất trong số ba hạm đội chủ lực của người Nhật tại Philippines, bao gồm bốn thiết giáp hạm, sáu tuần dương ham hạng nặng, hai tuần dương hạm hạng nhẹ và khoảng mười khu trục hạm.
Hạm đội Nhật tiếp cận từ phía Tây-Tây Bắc, cách Taffy 3 khoảng 31 km, và Taffy 3 đã hoàn toàn nằm trong tầm bắn và tầm nhìn của tàu chiến Nhật. Chỉ mang bom chìm để phòng khi bắt gặp tàu ngầm địch, Brooks cùng các phi công vẫn tiếp tục bắt đầu cuộc tấn công đầu tiên trong trận đánh, thả toàn bộ bom chìm vào tuần dương hạm Nhật Bản nhưng tất cả đều bị nảy ra khỏi tàu.
Hoa tiêu của Taffy 3 phát hiện ra hỏa lực cao xạ ở phía Bắc. Người Nhật đã thành công trong việc bất ngờ phục kích Taffy 3 lúc 06:45. Cùng lúc đó, các tàu khác trên Taffy 3 bắt được tín hiệu địch trên radar và các kênh liên lạc người Nhật. Khoảng 07:00, Yamato khai hỏa ở khoảng cách 31 km. Không sở hữu hệ thống radar dẫn bắn và máy tính dẫn bắn Mark I như người Mỹ, vốn có thể tính toán được toàn bộ thông số chỉ khi radar dẫn bắn vẫn khóa về phía mục tiêu, hệ thống dẫn bắn của người Nhật dựa vào máy tính toán đạn đạo cơ học và một máy khác để đo tốc độ và khoảng cách của mục tiêu cần bắn, cung cấp bởi máy đo quang học. Các chất nhuộm màu cũng được sử dụng trong các viên đạn xuyên giáp của thiết giáp hạm để các hoa tiêu có thể xác định được vị trí đạn rơi, điều khá phổ biến với những tàu chủ lực của nhiều đơn vị Hải quân trên thế giới.. Các thủy thủ Mỹ, vốn khá xa lạ với phương thức tác chiến của thiết giáp hạm, nhanh chóng ấn tượng bởi những vệt nước đầy màu sắc bốc lên xung quanh họ. Nagato dùng màu hồng sáng, Haruna dùng màu xanh lá vàng hỗn hợp và được miêu tả là xanh và vàng bởi người Mỹ, và Kongō dùng màu đỏ tuơi và đôi khi xuất hiện cả màu tím và xanh da trời trong một số khoảnh khắc. Yamato không dùng màu để nhận biết nên vệt nước của nó hiện màu trắng nguyên bản.
Không tìm thấy được những chiếc mẫu hạm hộ tống nhỏ bé kia trong danh sách nhận biết tàu của Hải quân, Kurita lầm tưởng chúng là những mẫu hạm chủ lực và cho rằng Đệ Tam Hạm đội của Halsey đang nằm trong tầm bắn của tàu ông. Ưu tiên hàng đầu của ông là loại bỏ các mối đe dọa của hàng không mẫu hạm, nên đã ra lệnh "Tấn công toàn lực", thay vì tổ chức đội hình cẩn thận và cụ thể, mỗi hải đội sẽ tấn công một mục tiêu cụ thể riêng biệt. Lúc đó người Nhật vừa thay đổi đội hình vòng tròn, nên mệnh lệnh này đã gây ra một số hỗn loạn, tạo điều kiện cho Sprague lùa người Nhật vào pha truy đuổi gắt gao, đẩy người Nhật vào thế chỉ dùng được pháo ở mũi tàu và hạn chế tính hiệu quả của hỏa lực cao xạ. Các tàu của Sprague sẽ không mất nhiều hỏa lực trong cuộc rượt đuổi như thế này, vì vũ khí được đặt ở đuôi tàu nhiều hơn ở phía trước, và các mẫu hạm của ông vẫn có thể tiến hành hoạt động bay như thường.
Rút chạy về phía đông
nhỏ|Khu trục hạm [[USS Heermann (DD-532)|USS Heermann (gần) và một khu trục hộ tống hạm đang xả khói bảo vệ Taffy 3 trong giờ đầu tiên của trận đánh.]] Lúc 06:50, đô đốc Sprague ra lệnh chuyển hướng toàn bộ đội hình về hướng 090, cho các mẫu hạm của ông phóng máy bay rồi di chuyển về phía Đông, hi vọng rằng tầm nhìn kém ở đó sẽ làm hạn chế độ chính xác của hải pháo Nhật Bản. Ông ra lệnh cho các mẫu hạm ở rìa đội hình xả khói để che chắn đội hình rút lui, đồng thời ra lệnh cho các tàu bẻ lái liên tục để làm rối loạn đường ngắm của kẻ thù, và cho các tàu phóng toàn bộ số máy bay họ có trên tàu như FM-2 Wildcat và TBM Avenger với tất cả số vũ khí mà chúng có thể lắp được. Số lắp tên lửa, súng máy, số lắp bom chống ngầm hoặc không lắp gì cả. Rất ít tàu có trang bị bom chống hạm hoặc ngư lôi chống hạm. Các phi công được lệnh "tấn công các đơn vị tàu Nhật Bản và sau đó quay về sân bay dã chiến Tacloban ở Leyte để tiếp tế đạn dược và nhiên liệu". Nhiều phi công tiếp tục thực hiện các đợt tấn công "giả" sau khi sử dụng hết toàn bộ đạn dược và bom mìn họ mang theo nhằm đánh lạc hướng kẻ thù. Lúc 07:20, Taffy 3 đi vào một cơn tố, và điều đó khiến pháo thủ Nhật gặp nhiều khó khăn hơn khi hệ thống dẫn bắn của họ không lấy thông tin được qua lớp mưa và khói dày đặc.
Trong thời gian đó, Kurita đang phải gánh chịu hậu quả của việc ra lệnh Tổng tấn công, Hải đội Tuần dương hạm số 5 và Hải đội Khu trục hạm số 10 di chuyển cắt qua đường đi của Hải đội Thiết giáp hạm số 3, vốn đang cố gắng thu gọn khoảng cách với tàu người Mỹ. Sự hỗn loạn đó buộc thiết giáp hạm Kongō phải bẻ lái sang hướng Bắc và tách khỏi đội hình, khiến con tàu phải tự thân vận động trong suốt trận đánh. Lo ngại việc những chiếc khu trục hạm sẽ tiêu thụ quá nhiều nhiên liệu vào việc rượt đuổi thứ được cho là mẫu hạm chủ lực và đồng thời cản trở tầm bắn của những chiếc thiết giáp hạm trong đội hình, Kurita ra lệnh cho những đội khu trục hạm di chuyển ra phía rìa của hạm đội lúc 07:10, một quyết định gây hậu quả tức thì, khi Hải đội Khu trục hạm số 10 buộc phải quay lại đúng lúc đội tàu của người Mỹ đi vào tầm bắn của họ. Hải đội Khu trục hạm số 2 gặp kết cục đau đầu hơn nếu lệnh không chuyển đến ngay lập tức: di chuyển phía sau Hải đội Thiết giáp hạm số 3, Yahagi và đội khu trục hạm phải di chuyển từ phía Nam lên phía Bắc của đội hình của Kurita để tập hợp với kì hạm của Hải đội - Kongō, khiến Kurita không còn con tàu nào ở vị trí đánh chặn đội tàu của người Mỹ khi họ quay đầu về hướng Nam lúc 07:30. Mặc dù đã ra lệnh tổng tấn công từ đầu buổi sáng, Kurita tiếp tục thay đổi lộ trình di chuyển của hạm đội xuyên suốt trận đánh.
"Small Boys Attack!"
trái|nhỏ|Khu trục hộ tống hạm USS Dennis (DE-405) đang xả khói che cho đội mẫu hạm hộ tống của Taffy 3, Samar, 25 tháng 10 năm 1944. Ba khu trục hạm và bốn khu trục hộ tống hạm có nhiệm vụ bảo vệ đội mẫu hạm hộ tống khỏi mối đe dọa của máy bay và tàu ngầm. Ba khu trục hạm lớp Fletcher - có biệt danh "Hộp thiếc" (Tin can) vì lớp giáp mỏng - nhưng đủ nhanh để bắt kịp với các đội mẫu hạm chủ lực. Mỗi chiếc mang năm tháp pháo nòng đơn 5-inch (127 mm) và hệ thống vũ khí cao xạ tối thiểu, không đủ hiệu quả để đối đầu với những con tàu bọc giáp lớn của người Nhật. Chỉ có mười quả ngư lôi 21-inch (530 mm) Mark-15 - được nạp trong hai hệ thống phóng năm nòng - là mối đe dọa lớn với những chiếc thiết giáp hạm và tuần dương hạm của người Nhật.
Thế mạnh của những chiếc khu trục hạm Hoa Kỳ là hệ thống dẫn bắn bằng radar Mark 37 GFCS, có thể cung cấp đường bắn cho những khẩu pháo 5-inch tự động. Hệ thống đa chức năng này có thể giúp tàu chiến Mỹ bắn trúng mục tiêu địch mặc cho tầm nhìn kém và tốc độ di chuyển nhanh. Người Nhật dựa vào hệ thống ngắm bắn quang học và vệt màu từ đạn pháo nên sẽ gặp nhiều khó khăn hơn khi xác định mục tiêu trong mưa, khói hay bị giới hạn hỏa lực khi thay đổi hướng di chuyển.
Bốn khu trục hộ tống hạm lớp John C. Butler nhỏ và chậm hơn, vì chúng được thiết kế để bảo vệ những đoàn vận tải chậm chạp khỏi mối đe dọa của tàu ngầm. Chúng được trang bị hai pháo 5-inch (127 mm) nhưng không có cơ chế bắn tự động, và ba quả ngư lôi, dù thủy thủ đoàn không được huấn luyện kỹ càng về phương thức tác chiến bằng ngư lôi. Ngư lôi chỉ có tầm hoạt động khoảng 10 km, nên chúng phù hợp nhất trong các cuộc tấn công vào ban đêm. Vào ban ngày, họ phải vượt qua làn đạn pháo với khoảng cách lên tới gần 50 km. Trong trận Samar, họ phải đối đầu với hạm đội dẫn đầu bởi chiếc thiết giáp hạm lớn nhất trong lịch sử và những màn khói ngụy trang được tạo ra trong trận đánh đã có ảnh hưởng không nhỏ tới cục diện của trận đánh.
Sau khi xả khói cản trở tầm nhìn của tàu Nhật khỏi những chiếc mẫu hạm hộ tống, họ bắt đầu những cuộc tấn công nhỏ lẻ, tiếp tục xả khói để che đi tầm nhìn của người Nhật. Những con tàu nhỏ bé này chiến đấu quả cảm đến mức người Nhật lầm tưởng họ đang phải đối đầu với những chiếc tuần dương hạm, và những chiếc khu trục hộ tống hạm có dáng y hệt những chiếc khu trục hạm thông thường. Lớp giáp mỏng này đã khiến những quả đạn pháo xuyên giáp đâm xuyên qua tàu mà không phát nổ, đến khi người Nhật bắt đầu nạp lại đạn HE và gây ra những thiệt hại lớn hơn. Tốc độ và sự cơ động đã giúp vài con tàu né được hoàn toàn các loạt pháo của người Nhật trước khi vào vị trí phóng ngư lôi. Khả năng kiểm soát thiệt hại và sự khỏe khoắn của hệ thống động cơ đã giúp các con tàu tiếp tục di chuyển và chiến đấu ngay cả khi đã trúng hơn chục phát pháo vào tàu, trong khi thi thể và người bị thương nằm la liệt khắp tàu. Các khu trục hạm của Taffy 2 cũng bị tấn công, nhưng đúng lúc Gambier Bay phát hiện ra họ và đánh tin hiệu xin trợ giúp, họ được lệnh quay lại để bảo vệ đội mẫu hạm hộ tống của Taffy 2. Lúc 07:10, mười phút sau khi xả khói bảo vệ đội mẫu hạm, Johnston bắt đầu tách đội hình và xông thẳng vào đội hình tàu Nhật tấn công. Khi Johnston đang tiếp tục chiến đấu, Đô đốc Sprague, từ hàng không mẫu hạm Fanshaw Bay, đã truyền đi một trong những mệnh lệnh đi vào lịch sử "Small Boys Attack!".
USS Johnston
nhỏ|Khu trục hạm USS Johnston đang tiếp nhiên liệu từ tàu chở dầu USS Millicoma, tháng 8 năm 1944. Lúc 07:00, Trung tá Ernest E. Evans - thuyền trưởng của Johnston, bắt đầu cho tàu xả khói để bảo vệ đội mẫu hạm hộ tống khỏi những đợt pháo của tàu Nhật và cho tàu di chuyển kiểu zig-zag. Mười phút sau đó, Sĩ quan Hỏa lực - Đại úy Robert Hagen bắt đầu cho khai hỏa vào mục tiêu gần nhất, cách đó 16 km và bắn trúng vài phát pháo vào chiếc tuần dương hạm dẫn đầu đoàn. Tàu Nhật bắt đầu bắn vào Johnston và những vụ nổ liên tục khiến con tàu rung lắc dữ dội. Đáp trả lại không chút chần chừ, Evans cho Johnston "tăng tốc độ tối đa, bẻ lái sang trái". Johnston tiếp tục xả khói và chạy zigzag, và di chuyển với tốc độ tối đa tới đội hình tàu chiến Nhật Bản.
Lúc 07:15, Hagen tập trung hỏa lực vào chiếc tuần dương hạm dẫn đầu đội hình - chiếc Kumano. Liên tục khai hỏa những khẩu pháo 5-inch ở khoảng cách tối đa 19 km, Johnston ghi nhận nhiều pha bắn trúng vào hệ thống thượng tầng của Kumano, tạo ra nhiều đám cháy lớn trên tàu.
Lúc 07:16, Spague ra lệnh cho Trung tá William D. Thomas - chỉ huy đội khu trục hạm và hiện đang có mặt trên khu trục hạm Hoel, dẫn đầu đội hình khu trục hạm và tấn công. Ba tàu bao gồm: Hoel, Heermann và Samuel B. Roberts bắt đầu tách đội hình và tăng tốc tiếp cận mục tiêu để phóng ngư lôi.
Johnston tiếp tục các cuộc tấn công một mình, bắn hơn 200 viên đạn pháo và liên tục bẻ lái qua những đợt sóng mạnh, khiến người Nhật khó có thể bắn trúng được. Johnston bắt đầu phóng toàn bộ mười quả ngư lôi ở khoảng cách 900 m. Mục tiêu thứ hai không thể quan sát rõ bằng mắt thường và không được xác định được một cách rõ ràng, nên Johnston cho rằng đó là một "tuần dương hạm", nhưng thực chất đó là thiết giáp hạm Haruna.
Lúc 07:37, Trung tá Thomas ra lệnh bắt đầu tấn công bằng ngư lôi thông qua radio. Johnston và Heermann nhận được lệnh và bắt đầu nghênh chiến. Lúc Johnston đang mở rộng khoảng cách với hạm đội người Nhật, nó đi ngang qua đội hình xung kích dẫn đầu bởi khu trục hạm Hoel, vốn đã bị hư hại rất nặng. Evans cho Johnston quay đầu tiếp tục cuộc tấn công vừa rồi và hỗ trợ hỏa lực cho đội tàu của Thomas vào vị trí phóng ngư lôi. Johnston thu hẹp khoảng cách với chiếc tuần dương hạm hạng nặng dẫn đầu đoàn Nhật - _Tone_, khoảng 5,5 km và nổ súng. Dù đã mất đi Radar dẫn bắn SC, Johnston vẫn bắn trúng Tone nhiều viên đạn, dù không còn độ chính xác như trước.
Lúc 09:45, Trung tá Evans ra lệnh bỏ tàu. Johnston chìm 25 phút sau đó và đem theo sinh mạng của 186 thành viên của thủy thủ đoàn. Evans cũng bỏ tàu cùng người của ông và đó cũng là lần cuối cùng ông được nhìn thấy. Evans sau được truy tặng Huân chương Danh dự vì đã dũng cảm chỉ huy con tàu chiến đấu tới những giờ phút cuối cùng. Khi khu trục hạm Yukikaze đi ngang qua chỗ những người sống sót, Trung sĩ Clint Carter - chỉ huy khẩu đội pháo số 52 của Johnston, chỉ cách mạn phải của Yukikaze vài chục mét, ngạc nhiên vì những gì anh thấy sau đó "Có vẻ như toàn bộ thủy thủ của tàu đang đứng ở tư thế nghiêm, như kiểu trong đội hình duyệt binh vậy, và họ đứng chào chúng tôi." Khi chiếc Yukikaze đi qua, Carter thấy một người sĩ quan già, trong bộ quân phục chỉnh tề và gọn gàng, đứng chào bọn họ ở trên đài chỉ huy tàu. "Tôi có thể chắc một điều rằng", Carter sau này kể lại "..họ khâm phục con tàu kiên cường này...USS Johnston." Một người thủy thủ đứng ở đuôi chiếc Yukikaze đã ném một vật gì đó về chỗ của Carter. Cái hộp đó quá to so với một quả lựu đạn và quá bé so với một quả bom chìm, đó là cà chua đóng hộp. Carter vồ lấy nó, kiểm tra và phát hiện rằng hộp này được đóng tại bang Arkansas. "Đã ba năm chiến tranh rồi [với người Mỹ] và họ vẫn ăn cà chua đóng hộp của người Mỹ."
USS Samuel B. Roberts
nhỏ|Khu trục hộ tống hạm USS Samuel B. Roberts (DE-413) tại biển Philippines, tháng 10 năm 1944. Dù những chiếc khu trục hộ tống hạm được thiết kế khá nhỏ gọn, chỉ đủ để làm nhiệm vụ săn ngầm và bảo vệ các đoàn tàu vận tải chậm chạp, chúng vẫn được trang bị cấu hình vũ khí chống hạm tiêu chuẩn như ngư lôi và pháo 5-inch (127 mm). Samuel B. Roberts được coi là "khu trục hộ tống hạm chiến đấu như một thiết giáp hạm" trong trận đánh, đã chiến đấu với những chiếc tuần dương hạm (được thiết kế để chống chịu hỏa lực của pháo 5-inch). Lúc 07:40, Thiếu tá Robert W. Copeland dẫn dắt con tàu của ông tránh ra khỏi chiếc khu trục hạm Heermann, vốn đang tiến công vào đội hình tàu Nhật. Nhìn chiếc khu trục hạm đó, ông nhận ra con tàu của ông đang ở vị trí phù hợp để phóng ngư lôi vào các tuần dương hạm của kẻ thù. Qua hệ thống loa thông báo, ông nói "Đây sẽ là một cuộc chiến không cân sức mà cơ hội sống sót là điều không thể hi vọng được. Nhưng chúng ta sẽ gây thiệt hại cho kẻ thù nhiều nhất có thể." Dù không được lệnh tấn công từ Sprague, ông vẫn cho tàu tăng tốc tối đa và theo chiếc Heermann tấn công những chiếc tuần dương hạm của Nhật Bản.
Dưới sự bao phủ của khói từ những chiếc khu trục hạm, Sammy B thoát khỏi sự chú ý của người Nhật. Không muốn thu hút toàn bộ sự chú ý của người Nhật vào con tàu nhỏ bé của ông, Copeland liên tiếp từ chối lệnh nổ súng của Sĩ quan Hỏa lực - Đại úy Bill Burton. Copeland không muốn phung phí bất cứ viên đạn 5-inch nào, dù các mục tiêu đều trong tầm ngắm và có thể thấy rõ ràng, nhưng khoảng cách vẫn còn rất xa, và ông có ý định phóng ngư lôi ở khoảng cách 4.6 km. Burton liên tiếp yêu cầu nổ súng nhiều đến mức Copeland phải hét lên "Chết tiệt, anh Burton, tôi sẽ cho anh biết khi nào cần phải nổ súng."
Một viên đạn lạc, có thể xuất phát từ một khu trục hạm gần đó, đã bắn trúng cột buồm của Sammy B và vô hiệu hóa máy phóng ngư lôi lúc 08:00. Sau khi khôi phục lại máy phóng, ở khoảng cách 3,7 km, Sammy B phóng ngư lôi vào Chōkai mà không bị Chōkai bắn trả. Sau khi thay đổi lộ trình di chuyển, Sammy B biến mất trong làn khói. Hoa tiêu báo cáo rằng có ít nhất một quả ngư lôi đã bắn trúng, và khiến chiếc Chōkai thất tốc và dạt vào bên rìa của đội hình lúc 08:23.
Lúc 08:10, Sammy B đang ở rìa của đội mẫu hạm hộ tống. Qua làn khói và cơn mưa dày đặc, tuần dương hạm hạng nặng Chikuma xuất hiện, bắn toàn lực vào đội mẫu hạm. Copeland đổi hướng di chuyển và nói với Burton "Anh Burton, anh có thể nổ súng." Sammy B và Chikuma bắt đầu đấu pháo nhau và Chikuma phải sẻ hỏa lực của mình giữa các đội mẫu hạm và chiếc Sammy B. Bị ép vào khoảng cách gần và tốc độ bắn chậm, Chikuma gặp nhiều khó khăn trong việc bắn vào các con tàu nhỏ và nhanh nhẹn của đối phương (vào thời gian đầu của trận đánh, khi biết rằng Sammy B sẽ phải làm nhiệm vụ bảo vệ đội hộ tống khỏi các mối đe dọa của tàu mặt nước Nhật Bản, kĩ sư trưởng - Đại úy Herbert "Bill" Trowbridge đã cho toàn bộ máy chạy vượt công suất và quá mức an toàn cho phép, khiến Sammy B đạt được tốc độ khoảng 52 km/h).
Khu trục hộ tống hạm Raymond, Dennis và John C. Butler cũng phóng ngư lôi về phía tàu Nhật. Dù không quả ngư lôi nào được bắn trúng, nhưng chúng đã làm chậm đà truy đuổi của người Nhật. Dennis trúng đạn pháo bởi ít nhất hai tuần dương hạm của Nhật, và John C. Butler phải ngừng bắn sau khi dùng hết toàn bộ cơ số đạn sau một giờ nghênh chiến.
USS Hoel
trái|nhỏ|Khu trục hạm USS Hoel (DD-533) ở Nam Thái Bình Dương, ngày 10 tháng 8 năm 1944. Khu trục hạm Hoel được chỉ huy bởi Trung tá Leon S. Kintberger, và là kỳ hạm của đội khu trục hạm và khu trục hộ tống hạm của Taffy 3. Ngay sau khi các cột nước xuất phát từ những viên đạn pháo Nhật bốc lên xung quanh các tàu của hạm đội, Hoel bắt đầu di chuyển zigzag và xả khói để bảo vệ đội mẫu hạm đang rút chạy. Khi Hoel thu hẹp khoảng cách với tàu Nhật tầm 16 km, Kintberger ra lệnh nổ súng, và ngay lập tức, mọi sự chú ý đều dồn vào con tàu này. Pháo 155 mm của Yamato bắn trúng một viên vào đài chỉ huy của Hoel ở khoảng cách 13 km, đánh sập toàn bộ hệ thống liên lạc của tàu, cướp đi sinh mạng của bốn thủy thủ và khiến Trung tá Kintberger và Sĩ quan chỉ huy đội khu trục hạm - Trung tá William Dow Thomas, bị thương.
Đô đốc Sprague sau đó lệnh cho Thomas tấn công tàu chiến Nhật bằng ngư lôi. Thomas sau đó cố gắng tập hợp được ba khu trục hạm dưới quyền của ông và "di chuyển theo đội hình và tiến công"
Hoel là con tàu đầu tiên của Taffy 3 bị bắn chìm, và chịu mức tổn thất về nhân mạng cao nhất toàn Taffy 3, chỉ 86 thành viên của thủy thủ đoàn sống sót, 253 sĩ quan và thủy thủ tử trận cùng con tàu. Trung tá Kintberger, sống sót qua trận đánh và sau này giải ngũ với quân hàm Chuẩn Đô đốc, đã miêu tả lại sự dũng cảm của Hoel trên một văn bia như sau: "Những chàng trai này hoàn toàn nhận thức được kết quả tất yếu của việc nghênh chiến với một hạm đội khổng lồ và hoàn toàn áp đảo mình, và họ đã tận tâm thực hiện mọi nghĩa vụ được giao phó tới những giờ phút cuối cùng của mình."
USS Heermann
nhỏ|Khu trục hạm USS Heermann (DD-532) đang neo đậu tại Nouméa, tháng 8 năm 1944. Heermann - chỉ huy bởi Trung tá Amos T. Hathaway - lúc đó đang rút chạy cùng đội hàng không mẫu hạm hộ tống. Lúc 07:37, Hathaway nhận được thông báo từ Thomas, lệnh cho Heermann dẫn đầu đội hình khu trục hạm tấn công tàu chiến Nhật. Heermann tăng tốc tối đa dưới sự che chở của khói và những cơn mưa dày đặc làm tầm nhìn xa chỉ còn khoảng 90 m, và hai lần phải bẻ lái khẩn cấp để tránh va chạm với 2 khu trục hạm khác trong đội hình, đầu tiên là Samuel B. Roberts và sau đó là Hoel lúc 07:49, khi con tàu đang cố gắng lên vị trí đầu đoàn để chuẩn bị phóng ngư lôi..
Lúc 07:50, Heermann tấn công tuần dương hạm Haguro với pháo 5-inch, cùng lúc đó, thủy thủ đoàn tích cực chuẩn bị một nửa số ngư lôi để chuẩn bị tấn công. Trong sự hỗn loạn, thủy thủ trực máy phóng ngư lôi số hai đã lỡ phóng thêm hai quả ngư lôi nữa sau khi máy số một đã phóng toàn bộ năm quả, trước khi được chỉ huy máy phóng cản lại. Sau khi phóng bảy quả ngư lôi, Heermann đổi hướng di chuyển để tấn công đội hình ba thiết giáp hạm đang nã pháo vào con tàu.
Lúc 08:26, Trung tá Thomas yêu cầu thu hút hỏa lực của những chiếc tuần dương hạm Nhật, đồng thời bắn hỗ trợ cho những chiếc CVE đang rút lui về phía đông. Hathaway đồng ý nhưng phải di chuyển lách qua đội hình mẫu hạm và đội hộ tống. Di chuyển với tốc độ tối đa, Heermann, một lần nữa, suýt đâm phải hai con tàu bạn, lần này là chiếc Fanshaw Bay và Johnston.
Heermann nhanh chóng tiếp cận chiếc Gambier Bay, đang bị hư hại rất nặng bởi những viên đạn pháo bắn ra ở khoảng cách rất gần. Ở khoảng cách 11 km, Heermann giao chiến với Chikuma để hút hỏa lực đang nhắm vào chiếc Gambier Bay sang mình. Chikuma giờ phơi mình giữa hỏa lực của chiếc Heermann và Samuel B. Roberts và trúng liên tiếp nhiều phát đạn. Cùng lúc đó, Heermann bị nã đạn bởi một hạm đội Nhật Bản. Các cột nước màu đỏ, vàng và xanh lá bốc lên chứng tỏ nó xuất phát từ thiết giáp hạm Kongō và Haruna. Nhiều cột nước không màu cũng bốc lên, có khả năng xuất phát từ những chiếc tuần dương hạm được dẫn đầu bởi chiếc Chikuma. Lúc 08:45, Heermann trúng một viên đạn pháo vào khu vực phòng lái, cướp đi sinh mạng của ba thủy thủ và làm thương nặng một người nữa. Hỏa lực pháo từ những chiếc CVE này đã gây nhiều thiệt hại cho tàu Nhật và góp phần đánh chìm chiếc Chōkai. Khi các pháo thủ cao xạ phải quan sát một cách bất lực mà không giúp được gì, một sĩ quan đã hét lên để động viên họ "các cậu cứ đợi một chút nữa thôi, chúng ta sẽ cho chúng nó nếm mùi khi chúng đi vào tầm bắn của pháo 40 mm."
Hàng không mẫu hạm hộ tống bị tấn công
Trong cuộc rút chạy về phía đông, các mẫu hạm hộ tống bị pháo kích dữ dội nhưng không chịu thiệt hại đáng kể do đạn rơi khá xa so với vị trí của họ. Lúc 08:05, Kalinin Bay trúng một viên đạn pháo 8-inch (200 mm) và các mẫu hạm bắt đầu bị pháo kích dữ dội. Tuy nhiên, người Nhật lúc đó đang sử dụng đan xuyên giáp (AP), nên phần lớn số đạn bay xuyên qua con tàu mà không phát nổ. Dù những CVE này thường được gọi là "Dễ cháy, dễ bị động và ít giá trị" (Combustible, Vulnerable, Expendable), nhưng chúng vẫn tỏ ra cực kì chủ động trong những loạt pháo đầu tiên của người Nhật và có khả năng chống chịu đạn pháo và bắn hạ những chiếc Thần Phong khá tốt.
USS White Plains
nhỏ|Những cột nước, gây ra bởi đạn pháo của tàu chiến Nhật, bốc lên gần khu vực hàng không mẫu hạm hộ tống USS Whtie Plain (CVE-66), Samar, 25 tháng 10 năm 1944. Khi Yamato khai hỏa lúc 06:59 ở khoảng cách ước tình tầm 32 km, White Plains chính là mục tiêu của loạt đạn đầu tiên đó. Loạt pháo thứ ba của Yamato rơi sát chiếc White Plains lúc 07:04. một viên từ loạt đạn này phát nổ ngay dưới lườn con tàu, gần khoang số 142 và phòng máy đặt ở bên phải đuôi tàu. Dù không trúng viên đạn trực diện, nhưng vụ nổ đã làm hư hại nặng thân con tàu, chập hệ thống máy ở bên phải và đánh sập phần lớn hệ thống liên lạc của tàu. Đội kiểm soát thiệt hại đã nhanh chóng khôi phục động cơ và hệ thống liên lạc trong vòng ba phút, cố gắng duy trì tốc độ để bắt kịp với đội hình bằng việc tăng công suất máy ở phòng máy bên trái tàu. Màn khói đen bốc ra dữ dội từ những vụ nổ gây ra bởi đạn pháo đó đã khiến Yamato (và Nagato, cũng khai hỏa dàn pháo chính vào chiếc White Plains lúc đó) tin là họ đã bắn trúng mục tiêu và nhanh chóng chuyển sang mục tiêu khác. Việc thay đổi lộ trình về hướng nam đã đưa chiếc White Plains vào vị trí đầu đội hình và đã giúp họ thoát khỏi tầm bắn của người Nhật tới lúc trận đánh kết thúc.
Cũng trong trận đánh này, khẩu đội pháo 5-inch (127 mm) của White Plains đã ghi nhận bắn trúng sáu viên đạn pháo vào tuần dương hạm Chōkai, khiến con tàu bị hư hại trước khi bị trúng bom của máy bay Mỹ không lâu sau đó.
USS Gambier Bay
trái|nhỏ|Hàng không mẫu hạm hộ tống [[USS Gambier Bay (CVE-73)|USS Gambier Bay đang bị pháo kích bởi tàu chiến Nhật Bản.]] Gambier Bay, vì là mẫu hạm gần với hạm đội của Kurita nhất, nên đã thu hút sự chú ý và nhanh chóng trở thành mục tiêu của phần lớn tàu chiến Nhật. Lúc 08:10, Chikuma thu hẹp khoảng cách còn 9.3 km và ghi nhận nhiều pha bắn trúng lên sàn bay chiếc Gambier Bay, dù phần lớn số đạn đều xuyên thẳng qua lớp giáp mỏng của tàu. Sau những pha bắn trúng không hiệu quả đó, các tàu chiến Nhật cho nạp lại đạn pháo nổ mạnh (HE) và những phát đạn sau đó đã đánh dấu cái kết cho chiếc Gambier Bay. Lúc 08:20, Gambier Bay bị hư hại khá nặng và một viên đạn pháo xuyên thẳng qua tàu, dù không phát nổ, nhưng đã khiến ngập nặng phòng máy ở trước tàu. Con tàu nhanh chóng bị thất tốc và sau đó chết đứng giữa biển. Trong khi phần lớn báo cáo của người Mỹ nói rằng viên đạn này xuất phát từ chiếc Chikuma thì báo cáo của người Nhật chỉ ra rằng đó có thể xuất phát từ chiếc thiết giáp hạm Yamato hoặc Kongō. Dù cả hai chiếc đều nhận họ đã bắn trúng một mẫu hạm trong cùng thời gian này, nhưng phát đạn đó được tin là của Yamato vì con tàu có vị trí gần chiếc Gambier Bay hơn và có góc bắn tốt hơn Kongō.
Ba tuần dương hạm của người Nhật nhanh chóng áp sát và khai hỏa ở khoảng cách cực gần. Trong lúc đó, những chiếc khu trục hạm, như Johnston, thì đang cố gắng thu hút sự chú ý của ba chiếc tuần dương hạm trong tuyệt vọng để cứu chiếc Gambier Bay, nhưng thất bại. Lửa bốc lên dữ dội từ con tàu tàn nua này. Gambier Bay lật úp lúc 09:07 và biến mất khỏi mặt biển lúc 09:11. Hơn 800 người sống sót và phần lớn họ được những đội tàu tuần tra từ vịnh Leyte cứu sống sau hai ngày trôi dạt trên biển. Gambier Bay là hàng không mẫu hạm hộ tống duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ bị đánh chìm bởi hỏa lực hải pháo của kẻ thù trong Thế chiến II.
USS St. Lo
nhỏ|221x221px|Hàng không mẫu hạm hộ tống USS St. Lo (CVE-63) xả khói trong trận Samar, ngày 25 tháng 11 năm 1944 Dù bị nã pháo dữ dội trong lúc rút chạy về phía đông, St. Lo vẫn lành lặn và không chịu bất cứ thiệt hại nghiêm trọng nào trong lúc đó. Lúc 07:38, đội tuần dương hạm Nhật áp sát mạn trái của St. Lo ở khoảng cách 13 km. St. Lo bắn trả dữ dội bằng khẩu pháo 5-inch (127 mm) duy nhất của mình, và báo cáo bắn trúng ít nhất ba viên đạn vào một chiếc tuần dương hạm lớp Tone. Lúc 10:00, con tàu phóng một chiếc Avenger được trang bị ngư lôi để tấn công cùng 1 đội bay phóng từ chiếc Kitkun Bay lúc 10:13. Lúc 10:51, Đại úy Yukio Seki, chỉ huy đội bay Shikishima, đã đâm chiếc A6M Zero của anh vào phía cuối sàn bay chiếc St. Lo, tạo ra một vụ nổ khủng khiếp và khiến lửa lan khắp khoang chứa máy bay. Sau mọi nỗ lực cứu tàu bất thành, Đại tá Francis J. McKenna ra lệnh bỏ tàu lúc 11:00. St. Lo lật úp và chìm lúc 11:25, đem theo sinh mạng của 114 thành viên thủy thủ đoàn.
USS Kalinin Bay
Vì là chiếc di chuyển ở cuối đội hình sau khi Đô đốc Sprague cho đổi hướng về phía nam, Kalinin Bay nhanh chóng bị vây quanh bởi đạn pháo của người Nhật. Mặc dù được làn khói, một trận mưa rào che chở và các đợt phản công của đội khu trục hạm để thu hút sự chú ý của kẻ thù, con tàu trúng phát đạn trực diện đầu tiên, trong tổng số 15 phát đạn ngày hôm đó, lúc 07:50. Hỏa lực từ thiết giáp hạm Nhật đã bắn trúng mạn phải của khoang chứa máy bay, ngay phía sau thang máy số một.
Lúc 08:00, tuần dương hạm Nhật (Tone và Haguro) xuất hiện ở bên trái đuôi tàu và thu hẹp khoảng cách còn 16 km. Kalinin Bay đáp trả dữ dội bằng một loạt pháo 5-inch (127 mm). Con tàu tiếp tục trúng ba viên đạn 8-inch (200 mm) trong vòng vài phút sau đó. Lúc 08:25, khẩu pháo 5-inch (127 mm) duy nhất của tàu đã bắn trúng một viên đạn vào tháp pháo số hai của một tuần dương hạm lớp Myōkō ở khoảng cách 15 km, và tiếp tục bắn trúng một viên nữa, khiến con tàu phải quay đầu và tạm thời rút lui khỏi đội hình.
Lúc 08:30, năm khu trục hạm Nhật Bản xuất hiện ở phía cuối chân trời, áp sát mạn phải của Kalinin Bay và nổ súng ở khoảng cách 13,3 km. Trong khi đội khu trục hạm của Taffy 3 đang giao tranh với những chiếc tuần dương hạm Nhật và cố gắng xả khói che tầm nhìn pháo thủ Nhật khỏi đội mẫu hạm. Kalinin Bay chuyển mục tiêu và giao tranh với Hải đội Khu trục hạm số 10 trong suốt một giờ tiếp theo. Không khu trục hạm bắn trúng chiếc Kalinin Bay, nhưng Kalinin Bay vẫn trúng hơn mười viên đạn 8-inch (200 mm) từ những chiếc tuần dương hạm. Một viên đạn bắn xuyên qua sàn bay và rơi thẳng vào phòng liên lạc, phá huỷ toàn bộ hệ thống máy radar và radio. Phần lớn những viên đạn được ghi nhận bắn trúng Kalinin Bay sau 08:45, khi Tone và Haguro cách Kalinin Bay khoảng 9,2 km.
Vào lúc 09:15, một chiếc Avenger của St. Lo - được điều khiển bởi Trung úy Leonard "Tex" Waldrop, đã bắn nổ hai quả ngư lôi đang phóng về chiếc Kalinin Bay ở khoảng cách 91 m. Một quả ngư lôi nữa bị pháo 5-inch (127 mm) của tàu bắn gần trúng và vụ nổ đã làm chệch hướng di chuyển của nó. Lúc 09:30, khi hỏa lực của Nhật dần rời rạc và bắt đầu rút lui, Kalinin Bay đã bắn trúng một viên trực diện vào một chiếc khu trục hạm. Năm phút sau đó, con tàu ngừng bắn và rút về phía nam với những gì còn lại của Taffy 3.
Khoảng 10:50, Taffy 3 bị không kích dữ dội. Trong suốt 40 phút đó, toàn bộ đội mẫu hạm, ngoại trừ chiếc Fanshaw Bay, đều bị hư hại bởi các cuộc tấn công cảm tử của phi công Nhật. Bốn chiếc máy bay lao về phía đuôi và mạn trái của Kalinin Bay. Hai chiếc bị bắn hạ, nhưng chiếc thứ ba khéo léo luồn lách qua làn đạn cao xạ và đâm vào mạn phải của Kalinin Bay, và cú đâm của chiếc thứ bốn đã phá hủy toàn bộ phần đuôi tàu. Kalinin Bay chịu thiệt hại rất nặng với 60 thương vong, bao gồm năm người tử trận. 13 viên đạn và hai viên đạn cỡ nòng to hơn được ghi nhận bắn trúng tàu. Hai viên đạn suýt trúng đã phát nổ ngay dưới thân con tàu, đã làm hư hỏng đáng kể lườn của Kalinin Bay.
USS Kitkun Bay
nhỏ|Hàng không mẫu hạm hộ tống USS Kitkun Bay (CVE-71) đang chuẩn bị phóng máy bay để tấn công hạm đội của Kurita. Mẫu hạm hộ tống đang bị pháo kích phía sau là chiếc White Plains.|trái|163x163px Vì là chiếc ở rìa đội hình mẫu hạm khi đang rút chạy về phía đông, cùng với White Plains, Kitkun Bay cũng trở thành mục tiêu bị pháo kích của tàu chiến Nhật, nhưng may mắn không trúng một viên đạn pháo nào của họ. Kitkun Bay sau đó trở thành chiếc dẫn đầu đoàn khi đội hình mẫu hạm chuyển hướng về phía nam và tránh được những thiệt hại nghiêm trọng. Lúc 10:13. con tàu phóng năm chiếc Avengers (bốn chiếc trang bị ngư lôi và một chiếc trang bị bom) để tấn công hạm đội đang rút lui của người Nhật. Năm chiếc này, cùng với một chiếc Avenger khác của St. Lo, đã tấn công Yamato lúc 10:35 nhưng không gây ra thiệt hại đáng kể nào. Kitkun Bay sau đó cũng bị tấn công bởi những chiếc máy bay cảm tử kamikaze lúc 11:08, hỏa lực cao xạ hiệu quả của Kitkun Bay (và với sự trợ giúp của Fanshaw Bay) đã giúp con tàu thoát khỏi những vụ tấn công tự sát và biến cô thành chiếc mẫu hạm hộ tống duy nhất trong toàn bộ đội mẫu hạm của Sprague sống sót lành lặn qua trận đánh.
USS Fanshaw Bay
Dù là mục tiêu của hai thiết giáp hạm Kongō và Haruna trong giờ đầu tiên của trận đánh, nhưng Fanshaw Bay - kì hạm của Đô đốc Sprague vẫn tránh được những thiệt hại nghiêm trọng khi đang rút về phía đông và là chiếc ở rìa đội hình, đối diện với chiếc Gambier Bay bên kia đội hình khi đang rút về phía nam. Khi hạm đội bị tấn công ác liệt bởi những tốp máy bay cảm tử, Fanshaw Bay suýt bị một chiếc đâm trực diện vào mạn phải con tàu, giúp bắn hạ một chiếc đang cố gắng lao vào Kitkun Bay và hỗ trợ việc hạ cánh cho những chiếc máy bay từ những mẫu hạm bị hư hại hoặc bị bắn chìm. Fanshaw Bay chịu mức thương vong bốn thủy thủ tử trận và bốn thủy thủ bị thương trong suốt trận đánh.
Thiết giáp hạm Yamato
nhỏ|Thiết giáp hạm Yamato trong trận Samar, ngày 25 tháng 10 năm 1944. Samar là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng Yamato có cơ hội được nghênh chiến với hạm đội mặt nước của kẻ thù, dù mũi tàu đã chìm xuống khoảng 2 m và thất tốc còn 26 knot sau khi trúng 3 quả bom xuyên giáp ở Biển Sibuyan. Yamato bắt đầu khai hỏa lúc 06:59, vào chiếc White Plains ở khoảng cách 31.569 km, khiến White Plains hư hỏng khá nặng ở loạt đạn suýt trúng mục tiêu thứ ba. Do làn khói xả ra mù mịt từ chiếc mẫu hạm để che mắt tầm nhìn kẻ thù đã khiến Yamato tin rằng mục tiêu đó đã bị tiêu diệt, và họ ngừng bắn lúc 07:09. Lúc 07:27, Yamato báo cáo pháo của họ đã bắn trúng một "tuần dương hạm của kẻ thù" ở khoảng cách 18.574 km. Khoảng thời gian, khoảng cách và góc bắn của Yamato lúc đó đều khớp với số liệu thiệt hại ghi lại trên khu trục hạm Johnston. Lúc 07:51, Yamato chuyển mục tiêu cho pháo 155 mm sang chiếc Raymond ở khoảng cách 9.232 km trước khi phải đánh lái tối đa sang bên trái để tránh ngư lôi phóng từ khu trục hạm USS Hoel lúc 07:54. Lúc 07:55, Yamato khai hỏa hệ thống pháo cao xạ 5-inch (127 mm) vào chiếc Hoel và bị trúng một viên đạn 5-inch (127 mm) của người Mỹ. Với việc bị Haruna ép sát mạn phải và đội khu trục hạm ở bên trái, cộng thêm loạt ngư lôi tiếp theo của Hoel, Yamato buộc phải bẻ lái về phía bắc đến khi những quả ngư lôi cạn nhiên liệu và quay lại đội hình lúc 08:12.trái|nhỏ|Thiết giáp hạm Yamato và một tuần dương hạm trong Trận Samar, 25 tháng 10 năm 1944.Lúc 08:23, một thủy phi cơ F1M2 của Yamato báo cáo rằng pháo của Yamato đã bắt trúng ít nhất một viên vào mẫu hạm hộ tống Gambier Bay, dù bên Kongō cũng ghi nhận pha bắn trúng đó là của họ. Báo cáo của Gambier Bay chỉ ra rằng họ chịu thiệt hại do một viên đạn bắn gần trúng từ 1 thiết giáp hạm trong cùng thời gian đó. Lúc 08:34, hệ thống pháo phụ của Yamato bắt đầu khai hỏa vào một "tuần dương hạm hạng nhẹ" (có thể là chiếc Hoel, chìm không lâu sau đó lúc 08:40). Lúc 08:45, Yamato phát hiện ba hàng không mẫu hạm của người Mỹ trong tầm bắn của họ, nhưng khói xả ra khiến họ không thể quan sát được toàn bộ đội hình của người Mỹ. Trong khoảng thời gian từ 09:06 tới 09:17, Yamato liên tục chịu các đợt không kích và ngư lôi từ máy bay Mỹ, và ghi nhận bắn hạ một máy bay Mỹ lúc 09:15. Phi công tiêm kích - Trung úy Richard W. Roby đã xả hết toàn bộ cơ số đạn súng máy vào sàn và đài chỉ huy của Yamato sau khi tấn công các khu trục hạm trước đó, khiến cho Yamato gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, báo cáo của người Mỹ về việc Yamato đã thu hẹp khoảng cách còn ít nhất 2,2 km với hạm đội của người Mỹ trước khi bị máy bay xuất kích từ mẫu hạm tấn công vẫn còn nhiều mâu thuẫn với báo cáo của Yamato sau trận đánh. Lúc 09:11, Kurita ra lệnh cho toàn bộ tàu của ông tập hợp tại phía bắc và lúc 09:22, Yamato giảm tốc độ xuống còn 20 knot và chuyển hướng 040, và cuối cùng là hướng 000 (về hướng bắc) lúc 09:25. Kurita báo cáo rằng hạm đội của ông đã đánh chìm hai hàng không mẫu hạm, hai tuần dương hạm và vài khu trục hạm và cho rằng Yamato thực sự đã đánh chìm White Plains trong bốn loạt đạn đầu tiên. Hạm đội của Kurita sự thật chỉ đánh chìm một mẫu hạm hộ tống, hai khu trục hạm và một khu trục hộ tống hạm, và hỏa lực của Yamato đã góp phần đánh chìm ba trong số bốn chiếc trên (dù vẫn còn nhiều tranh cãi).
Thiệt hại của Nhật Bản
nhỏ|Hạm đội của Kurita tại Samar, ngày 25 tháng 10 năm 1944. Ảnh chụp bởi một trinh sát cơ từ hàng không mẫu hạm [[USS Hornet (CV-12)|Hornet.]] Chōkai là mục tiêu của pháo 5-inch (127 mm) của các khu trục hạm