, sau đổi thành , là chiếc nguyên mẫu thứ hai của được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo sau cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất. Nhập biên chế năm 1925, nó trở thành một tàu huấn luyện vào năm 1935 và xuất biên chế vào năm 1942 sau những tháng đầu tiên của chiến tranh tại Thái Bình Dương. Nó sau đó phục vụ như một tàu huấn luyện cố định Haikan No. 14 rồi bị tháo dỡ sau chiến tranh.
Thiết kế và chế tạo
Bối cảnh
Sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất, Bộ tham mưu Hải quân Đế quốc Nhật Bản bắt đầu cân nhắc chiến tranh tàu ngầm như một thành phần chiến lược của hạm đội. Trước chiến tranh, Hải quân Đế quốc Nhật Bản xem tàu ngầm chỉ hữu ích cho việc phòng thủ duyên hải tầm ngắn. Cho dù một tàu ngầm lớn có tầm hoạt động xa đã được chấp thuận trong tài khóa 1918 trong Chương trình Hạm đội 8-6 dưới tên gọi Đề án S22 (sau này là chiếc I-51), một chiếc nguyên mẫu thứ hai với thiết kế khác biệt (sẽ là I-52) được chấp thuận trong tài khóa 1919.
Thiết kế
Nguyên mẫu Kaidai đầu tiên, Đề án S22, dựa trên thiết kế mới nhất của Hải quân Hoàng gia Anh là , và nó trở thành chiếc I-51 (Kaidai Kiểu I). Nguyên mẫu Kaidai thứ hai (Kaidai Kiểu II) được dựa trên lớp U-139 của Hải quân Đế quốc Đức, và được đặt tên Đề án S25.
Với động cơ diesel Sulzer được cải tiến, I-52 có cấu trúc vỏ đơn và trang bị hai động cơ (thay vì vỏ kép và 4 động cơ trên I-51). Hệ thống động lực mạnh hơn và hình dạng suôn thẳng hơn giúp nó đạt tốc độ di chuyển trên mặt nước cao hơn I-51, thậm chí cao hơn chiếc U-135 của Đức, nhưng với tầm xa hoạt động kém hơn.
Hải quân Nhật không xem I-52 là một thiết kế không hoàn toàn thành công, cho dù họ đạt được nhiều tiến bộ kỹ thuật trong thiết kế và chế tạo, cũng như những đặc tính vượt trội so với I-51. Sau khi họ nhận được bảy tàu U-boat của Hải quân Đế quốc Đức như là chiến lợi phẩm sau khi Thế Chiến I kết thúc, Hải quân Nhật bắt đầu xem xét lại các khái niệm thiết kế tàu ngầm của họ. Vì vậy I-52 trở thành chiếc Kaidai II duy nhất được chế tạo, và kế hoạch chế tạo thêm nhiều chiếc Kaidai II khác bị hủy bỏ trước khi ký hợp đồng với các xưởng tàu.
Chế tạo
Đề án S25 được đặt lườn như là chiếc tại Xưởng vũ khí Hải quân Kure ở Kure có thể vào ngày 14 tháng 2, hoặc 2 tháng 4, 1922, I-52 được phối thuộc trực tiếp cùng Quân khu Hải quân Kure, và tiếp tục vai trò huấn luyện.
Các nguồn thông tn khác nhau nên không thể xác định rõ hoạt động của I-52 vào nữa sau thập niên 1930 cho đến đầu thập niên 1940. Nó có thể là một tàu huấn luyện cố định tại Trường Kỹ thuật Hải quân Maizuru từ giữa năm 1938, hoặc chỉ được điều đến đây vào ngày 15 tháng 12, 1938. Nó cũng có thể được phái đến Quân khu Hải quân Maizuru để làm nhiệm vụ này, nhưng không rõ vào ngày 15 tháng 12, 1938 hay vào ngày 1 tháng 2, 1939. Con tàu được điều động trở lại Quân khu Hải quân Kure có thế vào ngày 31 tháng 7, 1941 hoặc vào ngày 8 tháng 12, 1941.
1941 - 1945
Vào đúng ngày Hải quân Nhật Bản bất ngờ không kích Trân Châu Cảng mở đầu cuộc chiến tranh tại Thái Bình Dương, 7 tháng 12, 1941, I-52 được điều về Lực lượng Bảo vệ Kure trực thuộc Quân khu Hải quân Kure. Nó đảm nhiệm vai trò tàu huấn luyện trong biển nội địa Seto, đặt căn cứ tại Kure. Sau ngày 10 tháng 4, 1942, nó tham gia thử nghiệm các phương thức thải bỏ chất thải tàu ngầm khác nhau. Con tàu được đổi tên thành vào ngày 20 tháng 5, 1942.
I-152 được đưa về Hạm đội dự bị vào ngày 14 tháng 7, 1942, và rút tên khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 1 tháng 8, 1942. Con tàu được đổi tên thành Haikan số 14 ("Thân tàu số 14"), và trở thành một tàu huấn luyện cố định cho Trường Tàu ngầm tại Kure. Sau đó nó được điều đến chi nhánh Hirao của Trường Tàu ngầm Ōtake tại tỉnh Yamaguchi. Khi xung đột chấm dứ vào ngày 15 tháng 8, 1945, nó đang ở lại Hirao. Haikan số 14 bị tháo dỡ tại Xưởng vũ khí Hải quân Kure trong giai đoạn từ năm 1946 đến năm 1948.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
, sau đổi thành , là chiếc nguyên mẫu thứ hai của được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo sau cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất. Nhập biên chế năm 1925, nó
**_I-52_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C3 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu ngầm
Hai tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản từng được đặt cái tên **_I-52_**: * _I-52_ (1923) là một hạ thủy năm 1923, đổi tên thành _I-152_ năm 1942 rồi rút đăng bạ
**_I-6_** là một tàu ngầm tuần dương, là chiếc duy nhất thuộc phân lớp của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, và có khả năng mang máy bay. Nhập biên chế năm 1935, _I-6_ đã
**Tàu ngầm Kiểu _Kaidai**_ (海大型潜水艦, _Kaidai-gata sensuikan_) là một lớp tàu ngầm hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản hoạt động trước và trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Tên lớp tàu
Đây là danh sách các tàu chiến thuộc Đế quốc Nhật Bản. ## Tàu chiến trung cổ * Atakebune, Tàu chiến cận bờ thế kỉ 16. * Châu Ấn Thuyền – Khoảng 350 tàu buồm
Tầu ngầm tấn công chạy bằng năng lượng hạt nhân lớp **Akula**, tên định danh của Liên Xô là **Project 971 _Shchuka-B**_ (, tên định danh của NATO là _**Akula**_) là tàu ngầm tấn công
**Lớp tàu ngầm _Tambor**_ bao gồm mười hai tàu ngầm diesel-điện được Hải quân Hoa Kỳ đưa vào hoạt động ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Chúng là những tàu ngầm hạm đội
là một lớp tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tàu ngầm _Type-B_ tương tự như _Type-A_ nhưng không có các thiết bị dành cho soái
**_Sendai_** (tiếng Nhật: 川内) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm ba chiếc, và được đặt tên theo
**_Kongō_** (tiếng Nhật: 金剛, Kim Cương) là chiếc tàu chiến-tuần dương đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc kiểu siêu-Dreadnought, là chiếc dẫn đầu của lớp Kongō bao gồm những chiếc _Hiei_,
**_Myōkō_** (tiếng Nhật: 妙高) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm bốn chiếc; những chiếc còn lại trong
**_Chikuma_** (tiếng Nhật: 筑摩) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ hai trong lớp _Tone_ vốn chỉ có hai chiếc. Tên của nó được đặt
**Chiến tranh Nga–Nhật** hay **Nhật-Nga chiến tranh** (tiếng Nhật: 日露戦争 _Nichi-Ro Sensō_, âm Hán Việt: "Nhật Lộ chiến tranh"; tiếng Nga: Русско-японская война, "Russko-yaponskaya voina"; tiếng Trung: 日俄戰爭 _Rì'ézhànzhēng_, "Nhật Nga chiến tranh") là một
**_Jintsū_** (tiếng Nhật: 神通) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp _Sendai_. Tên của nó được đặt theo sông Jinzu tại tỉnh Gifu và Toyama ở
**HMS _Ramillies_ (07)** là một thiết giáp hạm thuộc lớp _Revenge_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Tên của nó được đặt theo trận Ramillies. _Ramillies_ từng hoạt động trong cả Chiến tranh Thế
**Lớp tàu tuần dương C** là một nhóm bao gồm hai mươi tám tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, được chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh thế giới
**USS _Uhlmann_ (DD-687)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
nhỏ|388x388px|Tàu tuần dương _Frunze_ thuộc [[Tàu tuần dương hạng nặng lớp Kirov|lớp _Kirov_ của Hải quân Nga]] **Tàu tuần dương**, còn được gọi là **tuần dương hạm**, là một loại tàu chiến lớn, có vai
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Admiral**_ là một lớp bao gồm bốn tàu chiến-tuần dương của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được thiết kế vào lúc Chiến tranh Thế giới thứ nhất sắp kết thúc.
nhỏ|phải|[[HMS Hood (51)|HMS _Hood_, tàu chiến-tuần dương lớn nhất từng được chế tạo, lớn hơn mọi thiết giáp hạm Anh Quốc cho đến khi chiếc HMS _Vanguard_ đưa ra hoạt động vào năm 1946. Nó
**Lớp _Lexington**_ là lớp tàu chiến-tuần dương duy nhất được Hải quân Hoa Kỳ đặt hàng. Sáu chiếc trong lớp - được đặt những cái tên liên quan đến Chiến tranh Độc lập Hoa Kỳ
**Lớp tàu tuần dương _Hawkins**_ là một lớp tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc bao gồm năm chiếc được thiết kế vào năm 1915 và được chế tạo trong
là một trận động đất mạnh 9,0 MW ngoài khơi Nhật Bản xảy ra lúc 05:46 UTC (14:46 giờ địa phương) vào ngày 11 tháng 3 năm 2011. Trận động đất có vị trí chấn
**USS _North Carolina_ (BB-55)** là một thiết giáp hạm của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm hai chiếc, và là chiếc thiết giáp hạm mới đầu tiên
**USS _Morrison_ (DD-560)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**Lớp thiết giáp hạm _Revenge**_ bao gồm năm thiết giáp hạm thế hệ dreadnought của Hải quân Hoàng gia Anh, được đặt hàng vào lúc Chiến tranh Thế giới thứ nhất sắp mở màn, và
**Kawanishi _Baika**_ (梅花 – Mai hoa) là một mẫu máy bay _kamikaze_ trang bị động cơ xung phản lực trang bị cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào cuối Chiến tranh Thế giới II.
**Lớp thiết giáp hạm _Katori**_ (香取型戦艦 - Katori-gata senkan) là một lớp bao gồm hai chiếc thiết giáp hạm thế hệ tiền-dreadnought của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Lớp _Katori_ là những thiết giáp
thumb|, thiết giáp hạm dreadnought cũ nhất còn lại cho đến hôm nay, được hạ thủy vào năm 1912 và hiện là một tàu bảo tàng **Dreadnought** (tiếng Anh có khi còn được viết là
**Lớp thiết giáp hạm _Queen Elizabeth**_ bao gồm năm chiếc thiết giáp hạm thế hệ siêu-dreadnought của Hải quân Hoàng gia Anh. Tên của lớp được đặt nhằm tôn vinh Nữ hoàng Elizabeth đệ nhất
**HMS _Royal Oak_ (08)** là một thiết giáp hạm thuộc lớp _Revenge_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Được hạ thủy vào năm 1914 và hoàn tất vào năm 1916, _Royal Oak_ tham gia
**HMS _Warspite_ (03)** là một thiết giáp hạm thuộc lớp _Queen Elizabeth_ của Hải quân Hoàng gia Anh. Nó từng có mặt trong trận Jutland trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất, rồi hoạt động
**HMS _Repulse**_ là một tàu chiến-tuần dương thuộc lớp _Renown_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, vốn bao gồm cả chiếc _Renown_. Nó đã phục vụ trong cả cuộc Chiến tranh Thế giới thứ
**HMS _Hesperus_ (H57)** là một tàu khu trục lớp H, nguyên được Hải quân Brazil đặt hàng cho hãng John I. Thornycroft and Company dưới tên _Juruena_ vào cuối thập niên 1930, nhưng được Hải
**HMS _Dragon_ (D46)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Danae_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, nó được chuyển cho Hải quân Ba Lan
**HMS _Malaya**_ là một thiết giáp hạm thuộc lớp _Queen Elizabeth_ của Hải quân Hoàng gia Anh. Nó từng hoạt động trong cả Chiến tranh Thế giới thứ nhất lẫn thứ hai, từng có mặt
**_Zero no Tsukaima_** (tiếng Nhật: ゼロの使い魔; Linh Thú Của Zero) là một series light novel của Noboru Yamaguchi, sau này được chuyển thể thành anime, với sau đó là manga, và visual novel cho máy
**McDonnell Douglas F/A-18 Hornet** **(Ong vò vẽ)** là một máy bay phản lực chiến đấu đa nhiệm siêu thanh hai động cơ có khả năng hoạt động trên tàu sân bay trong mọi thời tiết,
**HMS _Cairo_ (D87)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp tàu tuần dương _C_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, được chế tạo trong giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ
**Chiến dịch Krym – Sevastopol (1941–1942)** bao gồm toàn bộ các trận chiến đấu của quân đội Xô Viết và quân đội Đức Quốc xã cùng với quân Romania tại bán đảo Krym từ tháng
**Chiến dịch Barbarossa** (), còn được gọi là **Cuộc xâm lược của Đức vào Liên Xô** là mật danh của chiến dịch xâm lược Liên Xô do Quân đội Đức Quốc xã tiến hành trong
**Chiến dịch tấn công chiến lược Iaşi–Chişinău** hay **Chiến dịch tấn công chiến lược Jassy-Kishinev** (,, gọi tắt là **Chiến dịch Iaşi-Chişinău** hay **Chiến dịch Jassy-Kishinev** là một chiến dịch tấn công chiến lược của
Focke-Wulf **Fw 190 Würger** ("shrike"), thường gọi là **Butcher-bird**, là một kiểu máy bay tiêm kích một động cơ một chỗ ngồi của Không quân Đức, và là một trong những chiếc máy bay tiêm
**Scotland** (phát âm tiếng Anh: , ) là một quốc gia cấu thành Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, chiếm một phần ba diện tích phía bắc của đảo Anh, giáp với Anh
**Hải quân Cách mạng Cuba** () là lực lượng hải quân của Cuba. ## Lịch sử Hải quân Lập hiến Cuba là lực lượng hải quân của Cộng hòa Cuba tồn tại từ trước năm
thumb|[[Pháo 5-inch/38-caliber|Pháo lưỡng dụng Mark 37 Modification 6 5-inch được trưng bày tại Bảo tàng Quốc gia Chiến tranh Thái Bình Dương. Pháo có tầm bắn hơn và có thể đạt tốc độ bắn 22
**Trận Hà Lan** () là một phần trong "Kế hoạch Vàng" () - cuộc xâm lăng của Đức Quốc xã vào Vùng đất thấp (Bỉ, Luxembourg, Hà Lan) và Pháp trong chiến tranh thế giới
là một chương trình truyền hình tokusatsu của Nhật. Đây là phần phim Kamen Rider đầu tiên phát sóng hoàn toàn trong thời Bình Thành và là phần thứ mười của loạt phim Kamen
**Frédéric François Chopin** (tên khai sinh là **Fryderyk Franciszek Szopen**; 1 tháng 3 năm 181017 tháng 10 năm 1849) là một nhà soạn nhạc và nghệ sĩ dương cầm người Ba Lan sống trong thời