I-52 là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C3 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu ngầm thứ hai của Hải quân Nhật mang cái tên này, sau khi chiếc I-52 thứ nhất được đổi tên thành I-152 vào năm 1942. Nhập biên chế vào cuối năm 1943, nó thực hiện một nhiệm vụ Yanagi nhằm trao đổi vật tư chiến lược, nhân sự và hàng hóa với Đức Quốc Xã. Dưới tên mã Momi, I-52 lên đường vào tháng 3, 1944 để hướng sang Châu Âu, gặp gỡ tàu ngầm U-530 ngoài khơi Tây Phi, nhưng bị các máy bay TBF Avenger từ tàu sân bay hộ tống Hoa Kỳ đánh chìm vào ngày 24 tháng 6, 1944 trước khi đi đến được cảng Lorient, Pháp. I-52 trở thành tàu ngầm Nhật Bản cuối cùng tham gia một nhiệm vụ Yanagi trong Thế Chiến II.
Thiết kế và chế tạo
Thiết kế
Tàu ngầm Type C3 là biến thể tàu ngầm vận tải dựa trên Type C2 dẫn trước, với ít hơn hai ống phóng ngư lôi, tăng thêm một khẩu hải pháo trên boong, và động cơ có công suất yếu hơn để nâng cao tầm xa hoạt động. Chúng có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn, lườn tàu có chiều dài , mạn tàu rộng và mớn nước sâu . Con tàu có thể lặn sâu đến .
Tàu ngầm Type C3 chỉ được trang bị hai động cơ diesel công suất , mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn, mỗi trục được vận hành bởi một động cơ điện công suất . Khi di chuyển trên mặt nước nó đạt tốc độ tối đa và khi lặn dưới nước, tầm xa hoạt động của Type C là ở tốc độ , và có thể lặn xa ở tốc độ .
Các con tàu có sáu ống phóng ngư lôi , tất cả được bố trí trước mũi, và mang theo tổng cộng 19 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu bao gồm hai khẩu hải pháo , cùng một pháo phòng không 25 mm Type 96 nòng đôi. Vào lúc nó hoàn tất, I-53 được trang bị radar Type 13 phòng không và radar Type 22 dò tìm mặt biển. Nó được đổi tên thành I-52 vào ngày 20 tháng 8, 1942, Con tàu được hạ thủy vào ngày 10 tháng 11, 1942, Số vàng này được dùng để chi trả các giấy phép kỹ thuật của Đức. Nó cũng vận chuyển 14 hành khách, chủ yếu là các kỹ thuật viên Nhật Bản được gửi sang Đức để học hỏi kỹ thuật về pháo phòng không và động cơ cho xuồng phóng lôi.
Trong đêm 22 tháng 6, lúc khoảng 21 giờ 15 phút (GMT), ở vị trí khoảng về phía Tây quần đảo Cabo Verde ngoài khơi bờ biển Tây Phi, I-52 gặp gỡ chiếc U-530, một tàu U-boat Type IXC/40 do Đại úy Hải quân Kurt Lange chỉ huy. I-52 được U-530 tiếp thêm nhiên liệu, và cung cấp một máy dò radar Naxos FuMB 7, một máy mật mã Enigma; U-530 cũng cử sang I-52 hai hạ sĩ quan vận hành radar cùng một sĩ quan liên lạc, Đại úy Alfred Schafer, cho hành trình băng qua vịnh Biscay. Sau đó U-530 tách ra để hướng sang Trinidad, còn I-52 đi trên mặt nước để hướng đến Lorient.
Đơn vị đi đến địa điểm vào chiều tối ngày 23 tháng 6, và Bogue cho phóng các máy bay TBF Avenger lúc khoảng 23 giờ 00 để truy tìm mục tiêu. Lúc khoảng 23 giờ 40 phút, một chiếc Avenger do Thiếu tá Hải quân Jesse D. Taylor chỉ huy phát hiện một mục tiêu đang di chuyển trên mặt nước qua radar, nên đã thả pháo sáng và ném mìn sâu tấn công, buộc tàu ngầm đối phương phải lặn xuống. Chiếc Avenger tiếp tục thả phao sonar để theo dõi mục tiêu, và khi dò thấy âm thanh chân vịt của tàu ngầm, nó lại tấn công với một quả ngư lôi dò âm Mark 24 FIDO, nghe thấy tiếng nổ khi quả ngư lôi đánh trúng mục tiêu và âm thanh thân tàu ngầm bị ép vỡ.
Đến ngày 30 tháng 8, 1944, Hải quân Đức Quốc xã chính thức công bố I-52 bị mất trong vịnh Biscay vào ngày 25 tháng 7, với tổn thất toàn bộ 95 thành viên thủ thủ đoàn, 14 hành khách và ba sĩ quan Hải quân Đức trên tàu. Vị trí của xác tàu đắm ở cách xa so với tọa độ mà Hải quân Hoa Kỳ báo cáo, nhưng chỉ sai nữa dặm so với tính toán của Meridian, vốn dựa trên nhật ký hải trình của các tàu Hoa Kỳ và Đức. Tháp chỉ huy của con tàu còn nguyên vẹn, và số hiệu vẫn còn nhìn thấy. Mũi tàu bị vỡ, có thể do va chạm với đáy biển lúc đắm, và thân tàu bị thủng một lổ lớn ngay sau tháp chỉ huy, có thể do một trong các quả ngư lôi đánh trúng.
Chính phủ Nhật Bản thoạt tiên phản đối ý định trục vớt con tàu và thu hồi vàng, cho rằng xác tàu đắm là nấm mồ của những người đã tử trận. Tidwell phải làm việc với các giới chức thẩm quyền Nhật Bản để được phép tiếp cận xác tàu đắm. Một hộp kim loại tại khu vực xác tàu đắm được vớt với hy vọng tìm thấy vàng, nhưng đã gây thất vọng cho những nhà thám hiểm khi chỉ chứa nha phiến. Tidwell dự định quay trở lại để trục vớt con tàu vào tháng 11, 2005 hay tháng 5, 2006, nhưng cho đến tháng 3, 2021, dự định này vẫn chưa được thực hiện.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_I-52_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C3 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu ngầm
**_I-124_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 52_** và mang tên **_I-24_** từ năm 1927 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
Hai tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản từng được đặt cái tên **_I-52_**: * _I-52_ (1923) là một hạ thủy năm 1923, đổi tên thành _I-152_ năm 1942 rồi rút đăng bạ
, sau đổi thành , là chiếc nguyên mẫu thứ hai của được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo sau cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất. Nhập biên chế năm 1925, nó
**_I-29_**, tên mã _Matsu_, là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm
, nguyên là **_Tàu ngầm số 64_**, sau đổi tên thành , là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIA nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1927.
**_I-3_** là một tàu ngầm tuần dương lớp bao gồm bốn chiếc có trọng lượng choán nước lên đến 2.135 tấn, được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến
, nguyên là **_Tàu ngầm số 78_**, sau đổi tên thành , là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIA nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1927.
, nguyên là **_Tàu ngầm số 77_**, sau đổi tên thành , là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIA nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1927.
**_I-42_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó chỉ kịp thực
**_I-75_**, sau đổi tên thành **_I-175_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**Tàu ngầm Kiểu _Kaidai**_ (海大型潜水艦, _Kaidai-gata sensuikan_) là một lớp tàu ngầm hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản hoạt động trước và trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Tên lớp tàu
**Tàu ngầm lớp I-52** hay **tàu ngầm Kiểu C3** là một loại tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, do Công ty Mitsubishi thiết kế và chế tạo vào giữa 1943 và 1944
là một lớp tàu ngầm hạng nhất phục vụ cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Những tàu ngầm _Type C_ được trang bị vũ khí mạnh hơn
Tên tàu Nhật tuân theo các quy ước khác nhau từ những quy ước điển hình ở phương Tây. Tên tàu buôn thường chứa từ _maru_ ở cuối (nghĩa là _vòng tròn_), trong khi tàu
Đây là danh sách các tàu chiến thuộc Đế quốc Nhật Bản. ## Tàu chiến trung cổ * Atakebune, Tàu chiến cận bờ thế kỉ 16. * Châu Ấn Thuyền – Khoảng 350 tàu buồm
**Hải quân Đế quốc Nhật Bản** (kanji cổ: 大日本帝國海軍, kanji mới: 大日本帝国海軍, romaji: _Dai-Nippon Teikoku Kaigun_, phiên âm Hán-Việt: **_Đại Nhật Bản Đế quốc Hải quân_**), tên chính thức **Hải quân Đế quốc Đại Nhật
**_Hatsuzuki_** (tiếng Nhật: 初月 - _Sơ Nguyệt)_ là một khu trục hạm lớp _Akizuki_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Là con tàu thứ tư của lớp _Akizuki_, _Hatsuzuki_ đã tham chiến tích cực
**USS _Juneau_ (CL-52)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _Atlanta_ từng phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên
**_Hiryū_** (**Nhật**: 飛龍, _Phi Long_) là một tàu sân bay thuộc lớp Sōryū được cải biến của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó là một trong những tàu sân bay Nhật đã mở đầu
**Chiến dịch Krym – Sevastopol (1941–1942)** bao gồm toàn bộ các trận chiến đấu của quân đội Xô Viết và quân đội Đức Quốc xã cùng với quân Romania tại bán đảo Krym từ tháng
**USS _O'Brien_ (DD-415)** là một tàu khu trục lớp _Sims_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai; nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân
**Lớp tàu khu trục _Gearing**_ bao gồm 98 tàu khu trục được Hải quân Hoa Kỳ trong và ngay sau Chiến tranh Thế giới thứ hai. Lớp _Gearing_ có những cải tiến nhỏ so với
**_Ise_** (), là chiếc dẫn đầu của lớp _Ise_ gồm hai chiếc thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, từng tham gia hoạt động tại mặt trận Thái Bình Dương trong Thế
**USS _Liscome Bay_ (CVE-56)** là một tàu sân bay hộ tống lớp _Casablanca_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai; tên nó được đặt theo vịnh Liscome thuộc
**USS _Oliver Mitchell_ (DE-417)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _John C. Butler_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến
**HMS _Ramillies_ (07)** là một thiết giáp hạm thuộc lớp _Revenge_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Tên của nó được đặt theo trận Ramillies. _Ramillies_ từng hoạt động trong cả Chiến tranh Thế
**USS _Waters_ (DD-115/ADP-8)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Wickes_ của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, sau được cải biến thành tàu vận chuyển cao tốc
**USS _Zane_ (DD-337/DMS-14/AG-109)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân
**USS _Wasp_ (CV/CVA/CVS-18)** là một trong số 24 tàu sân bay thuộc lớp _Essex_ được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ trong Thế Chiến II, và là chiếc tàu chiến thứ chín của Hải
**USS _Hoel_ (DD-533)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Mỹ
**USS _Meade_ (DD-602)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Benson_ của Hải quân Hoa Kỳ đã phục vụ trong suốt Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của
**USS _Bogue_ (CVE-9)**, (nguyên mang ký hiệu **AVG-9**, sau đó lần lượt đổi thành **ACV-9**, **CVE-9**, và **CVHP-9**), là một tàu sân bay hộ tống, là chiếc dẫn đầu của lớp _Bogue_ của Hải quân
**USS _Tennessee_ (BB-43)** là một thiết giáp hạm của Hải quân Hoa Kỳ trong Thế chiến II, là chiếc dẫn đầu trong lớp tàu của nó, và là chiếc tàu chiến thứ ba của hải
**USS _Tabberer_ (DE-418)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _John C. Butler_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy
**USS _Sangamon_ (CVE-26)** là một tàu sân bay hộ tống được cải biến từ tàu chở dầu để phục vụ cho Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc
**HMS _Opportune_ (G80)** là một tàu khu trục lớp O được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào năm 1939 do Chiến tranh Thế giới thứ hai bùng nổ. Sống sót qua cuộc
**USS _Russell_ (DD-414)** là một tàu khu trục lớp _Sims_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai; nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân
**USS _Bagley_ (DD-386)** là một tàu khu trục, chiếc dẫn đầu của lớp _Bagley_, được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải
**Chiến dịch Pedestal** (, **Trận chiến giữa tháng Tám**), được người dân Malta gọi là **** (, **Đoàn vận tải Santa Maria**), là một chiến dịch tiếp vận đảo Malta của Hải quân Hoàng gia
**Chiến dịch Kavkaz** là tên gọi chung cho một chuỗi các hoạt động quân sự tại khu vực Kavkaz diễn ra giữa quân đội Liên Xô và quân đội Đức Quốc xã trong cuộc Chiến
Vào cuối tháng năm đầu tháng 6 năm 1942 trong cuộc chiến Thái Bình Dương, các tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản đã mở nhiều cuộc **tấn công vào thành phố Sydney
**Trận Stalingrad** (23 tháng 8 năm 19422 tháng 2 năm 1943) là một trận đánh lớn diễn ra trong Chiến tranh Xô-Đức giữa Đức Quốc xã cùng với các nước thuộc địa và Hồng quân
Chiếc **Grumman TBF Avenger** (Người Báo Thù) (còn mang ký hiệu là **TBM** cho những chiếc được sản xuất bởi General Motors) là kiểu máy bay ném ngư lôi, ban đầu được phát triển cho
**Lớp thiết giáp hạm _North Carolina**_ là một lớp bao gồm hai thiết giáp hạm, _North Carolina_ và _Washington_, được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ vào cuối thập niên 1930 và đầu thập
**Chiến dịch Barbarossa** (), còn được gọi là **Cuộc xâm lược của Đức vào Liên Xô** là mật danh của chiến dịch xâm lược Liên Xô do Quân đội Đức Quốc xã tiến hành trong
**HMS _Electra_ (H27)** là một tàu khu trục lớp E được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào đầu những năm 1930. Trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, nó đã chứng kiến
**Chiến dịch Blau** (tiếng Đức: **_Fall Blau_**) là mật danh của Kế hoạch tổng tấn công từ mùa hè năm 1942 của quân đội Đức Quốc xã trên toàn bộ cánh Nam của mặt trận
Mitsubishi **A6M Zero** (**A** để chỉ máy bay tiêm kích hoạt động trên tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, kiểu thứ **6**, **M** viết tắt cho Mitsubishi) là máy bay tiêm
**USS _San Francisco_ (CA-38)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _New Orleans_, là chiếc tàu chiến thứ hai được đặt tên theo thành phố San Francisco thuộc