I-75, sau đổi tên thành I-175, là một tàu ngầm tuần dương
Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn, mỗi trục được vận hành bởi một động cơ điện .Con tàu có thể đạt tốc độ tối đa khi nổi và khi lặn. Khi Kaidai VIb di chuyển trên mặt nước nó đạt tầm xa hoạt động ở tốc độ , và có thể lặn xa ở tốc độ .
Lớp Kaidai VIb có sáu ống phóng ngư lôi , gồm bốn ống trước mũi và hai ống phía đuôi, và mang tổng cộng 14 ngư lôi. Vũ khi trên boong tàu bao gồm hải pháo /45 caliber, cùng hai súng máy nòng đơn phòng không. Nó được hạ thủy vào ngày 16 tháng 9, 1937, Vào ngày 11 tháng 10, 1940, I-75 cùng với 97 tàu chiến khác và 527 máy bay hải quân Nhật Bản tập trung tại vịnh Yokohama để tham gia cuộc duyệt binh hạm đội lớn nhất trong lịch sử Nhật Bản, nhân kỷ niệm 2.600 năm đăng quang của Thiên hoàng Jimmu. Sau đó Hải đội Tàu ngầm 3 được điều động sang Đệ Lục hạm đội, cùng thuộc thành phần Hạm đội Liên hợp, vào ngày 15 tháng 11, 1940. rồi đến ngày 11 tháng 11, bên trên soái hạm Katori, Phó đô đốc Shimizu Mitsumi, Tư lệnh Đệ Lục hạm đội, công bố Kế hoạch Z, là kế hoạch tấn công căn cứ Trân Châu Cảng của Hải quân Hoa Kỳ, mở màn cho cuộc xung đột tại Thái Bình Dương.
Chuyến tuần tra thứ nhất - Tấn công Trân Châu Cảng
Với Tư lệnh Đội tàu ngầm 11 trên tàu, I-75 khởi hành từ Kwajalein vào ngày 23 tháng 11 cho chuyến tuần tra đầu tiên, hướng sang khu vực quần đảo Hawaii. Trong khi đó I-175 sẽ tuần tra tại vị trí về phía Tây Nam Oahu để trinh sát thời thiết phục vụ cho chiến dịch.
Tuy nhiên khi I-123 đi đến bãi cạn Frigate Pháp vào ngày 29 tháng 5, các tàu tiếp liệu thủy phi cơ và đã hoạt động cùng những thủy phi cơ tại khu vực này, Sau khi nổi trở lại được, nó khởi hành từ Truk vào ngày 27 tháng 11 để quay trở về Nhật Bản, về đến Kure, Hiroshima vào ngày 4 tháng 12. I-175 chuyển đến Yokosuka vào ngày 5 tháng 12 để được sửa chữa.
1943
Trong khi I-175 được sửa chữa tại Yokosuka, Đội tàu ngầm 11 được giải thể vào ngày 15 tháng 3, 1943, và con tàu được điều về Đội tàu ngầm 12, tiếp tục trực thuộc Hải đội Tàu ngầm 3.
Chuyến tuần tra thứ bảy - Chiến dịch quần đảo Aleut
Trận Attu bắt đầu vào ngày 11 tháng 5, khi lực lượng Hoa Kỳ đổ bộ lên đảo Attu. I-175 rời Kure vào ngày 17 tháng 5 để hỗ trợ cho lực lượng Nhật Bản trong Chiến dịch quần đảo Aleut. Khi tình hình tại Attu xấu đi vào ngày 21 tháng 5, Đại bản doanh Nhật Bản quyết định cho triệt thoái lực lượng bị cô lập trên đảo Kiska. vào ngày 24 tháng 5, I-175 cùng các tàu ngầm I-169 và I-171 được lệnh hoạt động tại khu vực cách về phía Nam Kiska nhằm hỗ trợ cho một kế hoạch phản công lên Attu. Tuy nhiên, trận chiến tại Attu kết thúc vào ngày 30 tháng 5, khi lực lượng Nhật Bản tại đây bị tiêu diệt trước khi có thể tiến hành phản công. I-175 quay trở lại Paramushiro ở khu vực phía Bắc quần đảo Kuril.
Vào ngày 5 tháng 6, I-175 khởi hành từ Paramushiro cho một chuyến đi tiếp liệu đến Kiska, nơi nó chất dỡ một tấn đạn dược cùng 15 tấn lương thực. Sau khi đón lên tàu 60 hành khách, nó lên đường cho chặng quay trở về Paramushiro, đến nơi vào ngày 10 tháng 6. Được tiếp nhiên liệu từ tàu tiếp dầu Teiyō Maru trong ngày 11 tháng 6, nó lại lên đường hai ngày sau đó thực hiện một chuyến đi tiếp liệu khác đến Kiska, đến nơi vào ngày 17 tháng 6. Nó chuyển giao 16 tấn tiếp liệu và tiếp nhận 70 hành khách rồi quay trở về Paramushiro vào ngày 20 tháng 6.
Chuyến tuần tra thứ tám
Vào ngày 24 tháng 6, I-175 khởi hành từ Paramushiro cho chuyến tuần tra thứ tám, cùng với tàu ngầm I-171 tấn công tàu bè Đồng Minh trong khu vực Bắc Thái Bình Dương ở vị trí về phía Nam Amchitka, quần đảo Aleut. Trong khi nó đang tuần tra, những binh lính Nhật Bản cuối cùng được triệt thoái khỏi Kiska vào ngày 28 tháng 7. I-175 kết thúc chuyến tuần tra và quay về Nhật Bản, về đến Kure vào ngày 10 tháng 8.
Chuyến tuần tra thứ chín - Đánh chìm USS Liscome Bay
I-175 khởi hành từ Kure vào ngày 19 tháng 9 và đi đến Trukvào ngày 25 tháng 9. Nó rời Truk vào ngày 16 tháng 10 cho chuyến tuần tra thứ chín tại khu vực phụ cận đảo Wake. Vào ngày 20 tháng 10, tàu ngầm I-36 báo cáo phát hiện một đoàn tàu vận tải Đồng Minh lớn tại vụi trí phía Nam quần đảo Hawaii đang hướng sang phía Tây, nên I-175 cùng các tàu ngầm I-19, I-35 và I-169 đã được lệnh đánh chặn đoàn tàu vận tải, nhưng I-175 đã không bắt gặp mục tiêu.
I-175 đang trên đường quay trở về Truk vào ngày 20 tháng 11, khi phía Đồng Minh tiến hành giai đoạn đầu của Chiến dịch quần đảo Gilbert và Marshall, bắt đầu bằng việc đổ bộ lên các đảo san hô Tarawa và Butaritari (bị gọi nhầm là đảo Makin) thuộc quần đảo Gilbert. Để đối phó, I-175 được lệnh đi hết tốc độ hướng đến khu vực Butaritari. Nó đi đến ngoài khơi Butaritari vào ngày 24 tháng 11, khi lực lượng Hải quân Hoa Kỳ bắt đầu rút lui sau khi đã chiếm được các đảo san hô. Tại vị trí ngoài khơi Butaritari, thiết giáp hạm Hoa Kỳ phát hiện chiếc tàu ngầm qua radar lúc bình minh, và I-175 buộc phải lặn xuống né tránh đợt tấn công của đối phương. Nó tiếp tục áp sát mục tiêu, và đến 05 giờ 10 phút đã phóng một loạt bốn quả ngư lôi tấn công. Hai quả ngư lôi trượt khỏi tàu sân bay hộ tống , nhưng quả thứ ba đánh trúng đích , vốn đang di chuyển với tốc độ để chuẩn bị phóng máy bay. Chiếc tàu sân bay hộ tống bị đánh trúng bên mạn phải phía sau phòng động cơ, gây kích nổ hầm đạn chứa bom. Phần đuôi của nó nổ tung, mảnh vỡ văng xa đến tận New Mexico, vốn ở cách nó đến . Đến 05 giờ 24 phút, tàu khu trục dò được tín hiệu sonar của I-175, và đã tấn công bằng mìn sâu lúc 05 giờ 24 phút.
Liscome Bay đắm lúc 05 giờ 33 phút ngày 24 tháng 11, tại tọa độ với tổn thất 55 sĩ quan, bao gồm Chuẩn đô đốc Henry M. Mullinnix, Tư lệnh Đội tàu sân bay 24 và Đội đặc nhiệm 52, cùng Đại tá Hải quân Irving D. Wiltsie, Hạm trưởng Liscome Bay. Trong số 591 thủy thủ tử trận có Doris Miller, thủy thủ người da đen đầu tiên được tặng thưởng Huân chương Chữ thập Hải quân. 23 máy bay của Liscome Bay cũng bị mất cùng con tàu, nhưng năm chiếc đang bay lúc đó đã hạ cánh trên các tàu sân bay và . cùng các tàu khu trục khác đã cứu vớt 272 người sống sót từ Liscome Bay.
Vào ngày 26 tháng 11, I-175 gửi một báo cáo cho biết đã sống sót qua một đợt phản công kéo dài sáu giờ trong ngày 24 tháng 11, khi bị hai tàu khu trục đối phương thả 34 quả mìn sâu, trong đó sáu quả nổ gần tàu. Nó tự nhận ba quả ngư lôi Type 95 đã đánh trúng một tàu sân bay, có thể đã đánh chìm mục tiêu. Một ngày sau đó, nó báo cáo những hư hại bởi mìn sâu làm hạn chế độ sâu có thể lặn. Sau khi ghé đến Kwajalein qua đêm 27-28 tháng 11 để tiếp nhiên liệu, nó tiếp tục hành trình và về đến Truk vào ngày 1 tháng 12.
1944
Chuyến tuần tra thứ mười
Khởi hành từ Truk vào ngày 27 tháng 1, 1944 với Tư lệnh Đội tàu ngầm 12 trên tàu, I-175 thực hiện chuyến tuần tra thứ mười tại khu vực Đông Bắc quần đảo Marshall. Trong thời gian này, phía Đồng Minh tiến hành giai đoạn hai của Chiến dịch quần đảo Gilbert và Marshall, khi cho lực lượng đổ bộ lên Kwajalein và Roi-Namur cũng như lên Majuro. I-175 cùng với tàu ngầm Ro-39 được lệnh đi hết tốc độ đến đảo Wotje thuộc quần đảo Marshall, và I-175 đã trinh sát Wotje trong ngày 3 tháng 2.
Bị mất
Thiết giáp hạm phát hiện qua radar một mục tiêu ở khoảng cách về phía Đông Wotje lúc 22 giờ 03 phút ngày 3 tháng 2, và tàu khu trục được phái đi trinh sát mục tiêu. Ở khoảng cách , mục tiêu biến mất khỏi màn hình radar của Charrette, xác nhận đó là một tàu ngầm vừa lặn xuống. Chiếc tàu khu trục dò được tín hiệu sonar của mục tiêu lúc 00 giờ 03 phút ngày 4 tháng 2, và đã thả tám quả mìn sâu tấn công trước khi mất dấu mục tiêu. Được lệnh trợ giúp cho Charrette, tàu hộ tống khu trục đi đến hiện trường, và đến 00 giờ 40 đã bắn một loạt mười quả đạn cối chống ngầm Hedgehog. Charrette và Fair nghe thấy bốn vụ nổ dưới nước, xác nhận một tàu ngầm, có thể là chiếc I-175 bị đánh chìm ở vị trí về phía Đông Bắc đảo Jaluit, tại tọa độ .
Đa số các nguồn phía Nhật Bản lại cho rằng Charrette và Fair đã đánh chìm tàu ngầm Ro-39 vào ngày 4 tháng 2; còn I-175 đã bị tàu khu trục đánh chìm vào ngày 17 tháng 2 ở phía Tây Bắc quần đảo Marshall, tại tọa độ .
Đến ngày 26 tháng 3, Hải quân Nhật Bản công bố I-175 đã bị mất tại khu vực Kwajalein với tổn thất toàn bộ 100 người trên tàu. Tên nó được cho rút khỏi đăng bạ hải quân vào ngày 10 tháng 7, 1944.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_I-75_**, sau đổi tên thành **_I-175_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**_I-69_**, sau đổi tên thành **_I-169_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**_I-15_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã
**_I-7_** là một tàu ngầm tuần dương phân lớp bao gồm hai chiếc có khả năng mang máy bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó cùng với tàu chị em _I-8_ là những
**_I-35_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã tham
**_I-71_**, sau đổi tên thành **_I-171_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**_I-11_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**Tàu ngầm lớp Echo** là lớp tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa hành trình của Hải quân Liên Xô những năm 1960. Định danh của Liên Xô cho tàu ngầm đầu tiên thuộc loại
Đây là danh sách các tàu chiến thuộc Đế quốc Nhật Bản. ## Tàu chiến trung cổ * Atakebune, Tàu chiến cận bờ thế kỉ 16. * Châu Ấn Thuyền – Khoảng 350 tàu buồm
**Lớp _Casablanca**_ là lớp tàu sân bay hộ tống với số lượng tàu sân bay lớn nhất từng được chế tạo, với năm mươi chiếc được đặt lườn, hạ thủy và nhập biên chế trong
**Tàu khu trục lớp Kongō** (tiếng Nhật: こんごう型護衛艦) là lớp tàu khu trục mang tên lửa có điều khiển (DDG) đầu tiên của Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF) được chế tạo
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Lion**_ bao gồm hai tàu chiến-tuần dương được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Mang biệt danh "Splendid Cats", Nó đã đánh
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Admiral**_ là một lớp bao gồm bốn tàu chiến-tuần dương của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được thiết kế vào lúc Chiến tranh Thế giới thứ nhất sắp kết thúc.
**Lớp tàu sân bay _Graf Zeppelin**_ là hai tàu sân bay của Hải quân Đức được đặt lườn vào giữa những năm 1930 như một phần của Kế hoạch Z nhằm tái vũ trang. Bốn
**_Graf Zeppelin_** là tàu sân bay duy nhất của Đức được hạ thủy trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, tiêu biểu phần nào cho những nỗ lực của Hải quân Đức để tạo ra
**USS _Liscome Bay_ (CVE-56)** là một tàu sân bay hộ tống lớp _Casablanca_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai; tên nó được đặt theo vịnh Liscome thuộc
**USS _Charrette_ (DD-581)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS _Hoel_ (DD-533)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Mỹ
**USS _Mullinnix_ (DD-944)** là một tàu khu trục lớp _Forrest Sherman_ từng hoạt động cùng Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân
**USS _Fair_ (DE-35)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Evarts_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải
**SMS _Schleswig-Holstein**_ là một thiết giáp hạm của Đế quốc Đức, một trong số năm chiếc thuộc lớp thiết giáp hạm _Deutschland_ được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức từ năm 1903 đến
**HMS _Inglefield_ (D02)** là chiếc dẫn đầu cho Lớp tàu khu trục I được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai; nó là chiếc soái hạm khu
**HMS _Kempenfelt_ (I18)** là một tàu khu trục lớp C được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào đầu những năm 1930. Là một soái hạm khu trục, nó đã phục vụ cho
**SMS _Scharnhorst**_ là một tàu tuần dương bọc thép của Hải quân Đế quốc Đức, được chế tạo tại xưởng tàu của hãng Blohm & Voss ở Hamburg, Đức. _Scharnhorst_ là chiếc dẫn đầu cho
**USS _Cole_ (DD-155)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Wickes_ của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, sau được cải biến thành tàu phụ trợ **AG-116** vào
**Chiến dịch quần đảo Gilbert và Marshall** từ tháng 11 năm 1943 đến tháng 2 năm 1944, là các chiến dịch chiến lược quan trọng của Hải quân và Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ
**_Kingsman: Khởi Nguồn_** (tựa tiếng Anh: **_The King's Man_**) là một bộ phim hành động, gián điệp, sử thi năm 2021 do Matthew Vaughn đạo diễn kiêm sản xuất và chắp bút cùng với Karl
**Chiến dịch Krym – Sevastopol (1941–1942)** bao gồm toàn bộ các trận chiến đấu của quân đội Xô Viết và quân đội Đức Quốc xã cùng với quân Romania tại bán đảo Krym từ tháng
**Quân chủng Hải quân**, hay còn gọi là **Hải quân nhân dân Việt Nam**, là một quân chủng của Quân đội nhân dân Việt Nam. Hải quân nhân dân Việt Nam có 6 đơn vị:
**Cuộc xâm lược Ba Lan 1939** – được người Ba Lan gọi là **Chiến dịch tháng Chín** (_Kampania wrześniowa_), **Chiến tranh vệ quốc năm 1939** (_Wojna obronna 1939 roku_); người Đức gọi là **Chiến dịch
**Đan Mạch** (tiếng Đan Mạch: _Danmark_) là một quốc gia thuộc vùng Scandinavia ở Bắc Âu và là thành viên chính của Vương quốc Đan Mạch. Đan Mạch nằm ở vùng cực nam của các
**_Zero no Tsukaima_** (tiếng Nhật: ゼロの使い魔; Linh Thú Của Zero) là một series light novel của Noboru Yamaguchi, sau này được chuyển thể thành anime, với sau đó là manga, và visual novel cho máy
thumb|Khorfakkan **Sharjah** (phiên âm: _Sa-gia_; __; tiếng Ả Rập vùng Vịnh: _aš-šārja_) là thủ đô của tiểu vương quốc Sharjah, đồng thời là thành phố đông dân thứ ba tại Các Tiểu vương quốc Ả
là bộ truyện tranh lúc đầu được đọc trực tuyến trên Internet (Webcomic), sau đó đã chuyển thành manga và anime. Tác giả bộ truyện là . Nó còn được viết tắt là **Hetalia** hay
**Buôn Ma Thuột** (còn được viết là **Ban Mê Thuột**) là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Đắk Lắk, Việt Nam. Đây là thành phố lớn nhất ở vùng Tây Nguyên và là đô
**Philippines** (, tiếng Tagalog/tiếng Filipino: _"Pilipinas"_ hoặc _"Filipinas"_, Hán-Việt: _"Phi Luật Tân"_)_,_ tên gọi chính thức là **Cộng hòa Philippines** (tiếng Tagalog/tiếng Filipino: _Republika ng Pilipinas_; tiếng Anh: _Republic of the Philippines_) là một đảo
**Paris** () là thủ đô và là thành phố đông dân nhất nước Pháp, cũng là một trong ba thành phố phát triển kinh tế nhanh nhất thế giới cùng Luân Đôn với New York
**Viên** (phiên âm theo tên tiếng Pháp: _Vienne_) hay **Wien** (tên gốc tiếng Đức, ; tiếng Bavaria: _Wean_) là thủ đô liên bang của Cộng hòa Áo, đồng thời là thành phố lớn nhất, và
**Sicilia** ( , ) là một vùng hành chính tự trị của Ý. Vùng này gồm có đảo Sicilia lớn nhất Địa Trung Hải và lớn thứ 45 thế giới, cùng một số đảo nhỏ
Trung tâm thành phố Köln Nhà thờ lớn Köln và khu vực lân cận về ban đêm nhỏ|phảo|Khu phố Chợ Cũ (_Alter Markt_) ở Köln **Köln** hay **Koeln** (phiên âm tiếng Việt: **Cô-lô-nhơ** hay **Ku-ên**;
**Chiến tranh cục bộ** là một chiến lược quân sự của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam (giai đoạn 1965-1968). Nội dung cơ bản của chiến lược này là tận dụng ưu thế hỏa
**Chiến dịch Đông Carpath** là hoạt động quân sự lớn trong Chiến tranh Xô-Đức thuộc Chiến tranh thế giới thứ hai do Hồng quân Liên Xô tổ chức nhằm tấn công vào các tuyến phòng
** Đế quốc Áo-Hung**, **Nền quân chủ kép**, hoặc gọi đơn giản là _Áo_, là một chính thể quân chủ lập hiến và cường quốc ở Trung Âu. Đế quốc Áo-Hung được thành lập năm
phải|Đạn pháo 380mm trong [[Musée national de la Marine|Bảo tàng Hàng hải Quốc gia Pháp. Dùng cho 380mm/45 Modèle 1935 (Pháo bắn đạn xuyên phá 380mm tỉ lệ chiều dài nòng CaL 45)]] Ngày nay,
phải|Một mẫu dầu mỏ ở dạng nguyên thể phải|Giếng bơm dầu gần Sarnia, Ontario, [[Canada]] phải|Một công trường khai thác dầu tại [[Mina Al Ahmadi, Kuwait]] **Dầu mỏ** hay **dầu thô** là một chất lỏng
Chiếc **Typhoon** là một kiểu máy bay tiêm kích-bom Anh Quốc một chỗ ngồi, được sản xuất bởi Hawker Aircraft bắt đầu từ năm 1941. Mặc dù nó được dự định để thay thế cho
nhỏ|175|phải|Một nhóm người vượt biển trên một con thuyền nhỏ Bà mẹ và 3 đứa con được đưa lên tàu chở dầu Wabash **Thuyền nhân Việt Nam** là hiện tượng gần một triệu người, vượt
**Vàng** hay **kim** là nguyên tố hóa học có ký hiệu **Au** (lấy từ hai tự mẫu đầu tiên của từ tiếng La-tinh _aurum_, có nghĩa là vàng) và số nguyên tử 79, một trong
**S-300** là một loạt các hệ thống Tên lửa đất đối không tầm xa Nga do Tổng công ty khoa học công nghiệp Almaz sản xuất dựa trên phiên bản S-300P đầu tiên. Hệ thống