✨I-7 (tàu ngầm Nhật)

I-7 (tàu ngầm Nhật)

I-7 là một tàu ngầm tuần dương phân lớp bao gồm hai chiếc có khả năng mang máy bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó cùng với tàu chị em I-8 là những tàu ngầm Nhật Bản lớn nhất được hoàn tất trước khi nổ ra xung đột tại Thái Bình Dương. Nhập biên chế năm 1937, nó đã hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, hỗ trợ cho cuộc tấn công Trân Châu Cảng, càn quét tàu bè tại Ấn Độ Dương, và tham gia các chiến dịch Guadalcanal và quần đảo Aleut. I-7 đắm ngoài khơi đảo Kiska thuộc quần đảo Aleut vào ngày 23 tháng 6, 1943, sau một cuộc đụng độ kéo dài với tàu khu trục Hoa Kỳ .

Thiết kế và chế tạo

Thiết kế

Junsen III là sự tiếp nối của việc phát triển tàu ngầm sân bay, bắt đầu bằng phân lớp Junsen I Cải tiến với chiếc I-5 có khả năng vận hành một thủy phi cơ trinh sát, và sau đó là phân lớp Junsen II với chiếc I-6 khi được trang bị ngay từ đầu một hầm chứa cùng một máy phóng máy bay. Lớp Junsen III tiếp nối sau đó, bao gồm I-7I-8, cũng có các tính năng tương tự, với ý định sẽ hoạt động trong vai trò soái hạm của hải đội tàu ngầm. Hải quân Nhật muốn kết hợp những ưu điểm của các phân lớp Junsen trước đây với kiểu tàu ngầm Kaidai V. Junsen III là những tàu ngầm sau cùng có các thiết bị máy bay đặt sau tháp chỉ huy; mọi tàu ngầm sân bay Nhật Bản tiếp theo đều bố trí hầm chứa cùng máy phóng ở sàn phía trước.

Junsen III có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn, Nó được hạ thủy vào ngày 3 tháng 7, 1935,

I-7 trở thành soái hạm của Hải đội Tàu ngầm 2 trực thuộc Đệ Lục Hạm đội, trong thành phần Hạm đội Liên hợp, vào ngày 15 tháng 11, 1940. Sau khi một quả đạn pháo bắn trúng cầu tàu, thủy thủ và hành khách của Arcata bắt đầu bỏ tàu; Arcata đắm tại tọa độ , và bảy thành viên thủy thủ đoàn đã thiệt mạng. Phía Nhật Bản cho rằng I-7 đã ngừng bắn khi thấy mục tiêu thả xuồng cứu sinh; nhưng những người sống sót của Arcata cho rằng I-7 tiếp tục xả súng máy vào xuồng cứu sinh của họ, khiến thêm một thủy thủ nữa thiệt mạng.

I-7 được điều trở lại Lực lượng Tiền Phương từ ngày 20 tháng 7. Nó kết thúc chuyến tuần tra và về đến Yokosuka vào ngày 1 tháng 8, nơi nó được đại tu.

Chuyến tuần tra thứ tư

Trong khi I-7 ở lại cảng Yokosuka, Chiến dịch Guadalcanal bắt đầu vào ngày 7 tháng 8, khi lực lượng Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ đổ bộ lên Guadalcanal, Tulagi, đảo Florida, Gavutu và Tanambogo ở phía Đông Nam quần đảo Solomon. Đến ngày 20 tháng 8, Hải đội Tàu ngầm 2 được giải thể và I-7 được phối thuộc trực tiếp cùng Đệ Lục hạm đội, và đến ngày 31 tháng 8 được điều về Đội tàu ngầm 7. Với Tư lệnh Đội tàu ngầm 7 trên tàu và mang theo một thủy phi cơ Watanabe E9W1, nó khởi hành từ Yokosuka vào ngày 8 tháng 9 để đi căn cứ Truk tại quần đảo Caroline, đến nơi vào ngày 15 tháng 9. Được điều sang Đơn vị Canh phòng 1, nó lên đường vào ngày 19 tháng 9 để bắt đầu chuyến tuần tra thứ tư, hoạt động tại phía Đông Nam đảo San Cristóbal thuộc quần đảo Solomon.

Vào ngày 10 tháng 10, I-7 được lệnh rời khu vực tuần tra để tiến hành trinh sát Espiritu Santo, nhằm chuẩn bị cho một cuộc đột kích của Lực lượng Đổ bộ Hải quân Đặc biệt do tàu ngầm I-1 thực hiện. Thủy phi cơ E9W1 của I-7 đã trinh sát bên trên Espiritu Santo ba ngày sau đó, phát hiện hai tàu tuần dương hạng nhẹ, bảy tàu vận tải, nhiều tàu nhỏ và thủy phi cơ ngoài khơi bờ biển phía Nam. I-7 tiến hành bắn phá Espiritu Santo trong đêm 14 tháng 10 với 14 phát đạn pháo. Nó lại bắn phá nơi đây một lần nữa trước lúc bình minh ngày 23 tháng 10, nhưng chỉ kịp bắn sáu phát đạn trước khi bị pháo phòng thủ duyên hải đối phương bắn trả, buộc phải lặn xuống ẩn nấp.

I-7 được lệnh trinh sát Espiritu Santo một lần nữa vào ngày 31 tháng 10, nhưng chiếc E9W1 của nó bị hư hại và không thể cất cánh. Dù sao nó cũng trinh sát mục tiêu qua kính tiềm vọng vào ngày 7 tháng 11. Sau khi được tàu ngầm I-9 mang theo một thủy phi cơ Yokosuka E14Y1 thay phiên ngoài khơi Espiritu Santo vào ngày 9 tháng 11, I-7 được lệnh đi đến trinh sát Ndeni và Vanikoro thuộc quần đảo Santa Cruz. Nó trinh sát Ndeni qua kính tiềm vọng vào ngày 10 tháng 11, không phát hiện mục tiêu nào quan trọng, rồi chiếc E9W1 của nó trinh sát bên trên Vanikoro vào ngày hôm sau. Sau đó chiếc tàu ngầm rút lui về Truk, đến nơi vào ngày 18 tháng 11. Nó tiếp tục lên đường vào ngày 24 tháng 11 để quay trở về Nhật Bản, về đến Yokosuka vào ngày 1 tháng 12.

1943

Chuyến tuần tra thứ năm - Chiến dịch quần đảo Aleut

Vào ngày 1 tháng 4, Đội tàu ngầm 7 được điều động sang Đệ Ngũ Hạm đội để hoạt động tại khu vực Bắc Thái Bình Dương, với nhiệm vụ chủ yếu là vận chuyển tiếp liệu và tăng viện cho lực lượng đồn trú tại quần đảo Aleut. I-7 khởi hành từ Yokosuka vào ngày 21 tháng 4, vận chuyển thực phẩm và đạn dược đến đảo Kiska, đến nơi vào ngày 1 tháng 5, rồi tiếp tục đi đến đảo Attu vào ngày 4 tháng 5. Nó lên đường ngay trong hôm đó để quay trở về Nhật Bản, ghé đến Paramushiro thuộc quần đảo Kurils vào ngày 8 tháng 5 trước khi về đến Yokosuka vào ngày 12 tháng 5. Trong thời gian đó vào ngày 11 tháng 5, lực lượng Đồng Minh bắt đầu phản công tại khu vực này, khi Lực lượng Đặc nhiệm 16 dưới quyền Chuẩn đô đốc Thomas C. Kinkaid cho đổ bộ các sư đoàn 4 và 7 nhằm tái chiếm đảo Attu.

Với Tư lệnh Đội tàu ngầm 7 trên tàu, I-7 khởi hành từ Yokosuka vào ngày 18 tháng 5 với hàng tiếp liệu cho lực lượng chiến đấu tại Attu, đồng thời thực hiện chuyến tuần tra thứ năm. Khi nó đi đến Attu vào ngày 21 tháng 5, tình hình đã xấu đến mức Đại bản doanh Nhật Bản quyết định bỏ Attu, đồng thời cho triệt thoái toàn bộ lực lượng khỏi đảo Kiska lân cận, bắt đầu từ ngày 26 tháng 5. Khi I-7 rời khu vực tuần tra tại Attu và đi đến ngoài khơi Kiska vào ngày 26 tháng 5, nơi đây đang bị đối phương không kích. Nó phải đợi cho đến 22 giờ 30 phút trước khi tiến vào cảng, cho chất dỡ lương thực và đạn dược, rồi đón lên tàu 60 thương binh và bệnh binh cùng 53 người khác để đưa về Paramushiro, đến nơi vào ngày 1 tháng 6. Trong thời gian này, Attu thất thủ vào ngày 30 tháng 5.

Sau khi được chiếc tàu tiếp dầu Teiyō Maru tiếp nhiên liệu vào ngày 2 tháng 6, I-7 lại lên đường hai ngày sau đó cho một chuyến đi tiếp liệu khác sang Kiska. Nó cùng tàu ngầm I-34 đến nơi vào ngày 8 tháng 6, cho chất dỡ 15 tấn lương thực và 9 tấn đan dược, rồi đón lên tàu 101 hành khách để đưa về Paramushiro, đến nơi vào ngày 13 tháng 6.

Một lần nữa đón Tư lệnh Đội tàu ngầm 7 lên tàu, I-7 khởi hành từ Paramushiro lúc 16 giờ 00 ngày 15 tháng 6 cho chuyến đi tiếp liệu tiếp theo sang Kiska. Tuy nhiên trên đường đi vào ngày 17 tháng 6, Tư lệnh Hải đội Tàu ngầm 1 yêu cầu các tàu ngầm I-7, I-34, I-36I-169 tạm ngưng các chuyến đi tiếp liệu đến Kiska, sau sự kiện chiếc I-157 bị mắc cạn vào ngày 16 tháng 6, và các cuộc tấn công của tàu khu trục Hoa Kỳ trang bị radar. Tư lệnh Hải đội Tàu ngầm 1 cũng ra lệnh cho các tàu ngầm I-2, I-157I-175 truy tìm các tàu chiến Hoa Kỳ.

Dưới áp lực từ Đại bản doanh yêu cầu tiếp tục việc tiếp liệu và triệt thoái khỏi Kiska, Hải đội Tàu ngầm 1 thay đổi mệnh lệnh vào ngày 18 tháng 6, cho phép các tàu ngầm tiếp nối hoạt động tiếp liệu. I-7 đi đến ngoài khơi Kiska vào ngày 19 tháng 6, nhưng vịnh Vega bị bao phủ một màn sương mù dày đặc, nên hạm trưởng I-7 cho trì hoãn việc chất dỡ hàng tiếp liệu.

Bị mất

I-7 trồi lên mặt nước ở vị trí khoảng về phía Nam vịnh Vega lúc 19 giờ 00 ngày 20 tháng 6 nhằm cố gắng tiến vào nơi neo đậu Gertrude Cove. Tàu khu trục Hoa Kỳ , lúc đó đang tuần tra ở vị trí ngoài khơi Bukhti Point, đã phát hiện I-7 qua radar ở khoảng cách và bắt đầu tiếp cận. I-7 không được trang bị radar nên không biết Monaghan đang hiện diện tại khu vực cho đến 19 giờ 20, khi nó dò thấy âm thanh chân vịt tàu đối phương, nên bắt đầu chuẩn bị để lặn xuống. Mười phút sau đó, Monaghan khai hỏa hải pháo điều khiển bằng radar vào đối phương từ khoảng cách , khiến I-7 bị bất ngờ. Trước khi chiếc tàu ngầm kịp lặn xuống, nó trúng hai phát đạn pháo 5-inch vào tháp chỉ huy bên mạn phải, làm thiệt mạng hạm trưởng, sĩ quan hoa tiêu, người lái tàu cùng hai hạ sĩ quan, và khiến sĩ quan thông tin bị thương.

Sĩ quan ngư lôi của I-7 là người cao cấp nhất còn lại tiếp nhận quyền chỉ huy con tàu, ra lệnh cho I-7 ở lại trên mặt biển và cho thủy thủ đoàn vận hành các khẩu pháo để bắn trả. Nó đã bắn 30 quả đạn pháo 14-cm cùng với đạn súng máy về hướng Monaghan. Tuy nhiên thủy thủ của I-7 vô tình để mở van thùng dằn phía đuôi khiến ngập nước, và con tàu bị nghiêng và chìm phía đuôi tàu. Đến khoảng 19 giờ 45 phút, chiếc tàu ngầm mắc cạn tại Bukhti Point, và sĩ quan ngư lôi tạm quyền hạm trưởng ra lệnh bỏ tàu trong khi thượng sĩ quản trị tiêu hủy các tài liệu mật và phá hủy máy mật mã để ném xuống biển. Trong thời gian đó, một xuồng Daihatsu được phái đến khu vực để chất dỡ hàng tiếp liệu từ I-7 tìm cách liên lạc với chiếc tàu ngầm trong sương mù bằng tín hiệu đèn, nhưng bị Monaghan tấn công bằng súng máy và phải rút lui.

Sử dụng bộ đàm cầm tay, I-7 liên lạc với lực lượng trên bộ tại Kiska lúc 02 giờ ngày 21 tháng 6. Hai xuồng Daihatsu từ Gertrude Cove đi đến cùng mới máy hàn, và cùng với thủy thủ của I-7 bịt kín lổ thủng trên tháp chỉ huy. Xuồng Daihatsu cũng chất dỡ một số hàng tiếp liệu khỏi chiếc tàu ngầm để chuyển lên bờ. Sau cuộc hội ý với các sĩ quan còn lại trên tàu, hạm trưởng tạm quyền của I-7 quyết định đi nhanh trên mặt nước để rút lui về Yokosuka, có thể ghé qua Paramushiro. Sau khi công việc sửa chữa hoàn tất lúc 18 giờ 45 phút, I-7 tiến vào Gertrude Cove lúc 19 giờ 00 để chất dỡ toàn bộ số hàng tiếp liệu còn lại, chôn cất những người tử trận và nhận lên tàu các bộ mật mã mới. Nó khởi hành lúc nữa đêm 21-22 tháng 6.

Monaghan đang tuần tra về phía Nam Kiska trong bối cảnh sương mù khi nó phát hiện I-7 qua radar ở khoảng cách lúc 00 giờ 35 phút ngày 22 tháng 6. Nó tiếp cận mục tiêu, và đến 01 giờ 30 phút đã bắn hải pháo điều khiển bằng radar vào đối phương khi I-7 ở vị trí khoảng về phía Nam vịnh Vega. Một lần nữa Monaghan lại gây bất ngờ cho I-7 khi bắn trúng nhiều phát, bao gồm bên mạn trái của tháp chỉ huy, khẩu hải pháo trên boong và thùng dằn phía đuôi tàu, làm thiệt mạng sĩ quan phòng máy và khiến hạm trưởng tạm quyền bị thương nặng. Trung úy sĩ quan tác xạ của I-7 tiếp nhận quyền chỉ huy con tàu, ra lệnh cho thủy thủ bắn trả, và Monaghan ngừng bắn sau mười phút.

Monaghan khai hỏa trở lại lúc 02 giờ 10 phút, chiếu sáng mục tiêu bằng đạn pháo sáng. Khoảng 02 giờ 18 phút, một phát bắn trúng làm hỏng động cơ bánh lái của I-7, khiến chiếc tàu ngầm bắt đầu chạy theo một vòng tròn rộng và quay trở lại Kiska. Một phát đạn pháo khắc bắn trúng đạn dược chứa trên boong tàu gây ra một đám cháy, và khói lửa bị hút vào động cơ diesel khiến có nguy cơ hỏa hoạn bên trong tàu. I-7 bắt đầu ngập nước phía đuôi tàu và bị nghiêng 30 độ qua mạn trái, đồng thời thủy thủ đoàn chịu thương vong nặng, nên hạm trưởng tạm quyền quyết định đưa nó trở lại Kiska. Monaghan không tiếp tục truy đuổi vì nguy cơ mắc cạn tại vùng nước nông ngoài khơi Kiska.

I-7 mắc cạn lúc 03 giờ 15 phút tại Twin Rocks ngoài khơi vịnh Vega tại tọa độ . Nó nhanh chóng bị đắm phần đuôi, khiến một số người bị mắc kẹt bên trong tàu, và một phần phía trước con tàu dài nhô bên trên mực nước. I-7 bị mất 87 sĩ quan và thủy thủ trong hai cuộc đụng độ với Monaghan và khi nó bị đắm; một xuồng Daihatsu đi đến hiện trường lúc 06 giờ 30 và cứu vớt được 43 người sống sót.

Đến ngày 23 tháng 6, một xuồng Daihatsu đi đến hiện trường chở theo thợ lặn để tìm cách thu hồi các bộ mật mã mà I-7 mang theo khi nó đắm. Tuy nhiên họ đã không tìm thấy các tài liệu này, và sau đó cài các khối chất nổ để phá hủy phần mũi tàu. Phía Nhật Bản hoàn tất việc triệt thoái lực lượng khỏi Kiska vào ngày 28 tháng 7, và lực lượng Hoa Kỳ đổ bộ lên hòn đảo bị bỏ lại này vào ngày 15 tháng 8.

Tên của I-7 được cho rút khỏi đăng bạ hải quân vào ngày 20 tháng 8, 1943.

Diễn biến tiếp theo

Vào ngày 26 tháng 8, tàu kéo hạm đội đi đến nơi để khảo sát xác tàu đắm của I-7, phát hiện chiếc tàu ngầm trong tình trạng lật nghiêng qua mạn trái tại độ sâu . Cho dù tháp chỉ huy bị hư hại nặng, số hiệu con tàu vẫn được nhìn thấy. Đến ngày 7 tháng 9, tàu cứu hộ tàu ngầm lại đi đến để tiếp tục khảo sát xác tàu trong vòng một tháng, khi bảy thợ lặn đi vào bên trong xác tàu và thu lượm được nhiều tài liệu tình báo giá trị.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_I-7_** là một tàu ngầm tuần dương phân lớp bao gồm hai chiếc có khả năng mang máy bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó cùng với tàu chị em _I-8_ là những
**_I-124_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 52_** và mang tên **_I-24_** từ năm 1927 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
**_I-122_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 49_** và mang tên **_I-22_** từ năm 1926 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
**_I-121_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 48_** và mang tên **_I-21_** từ năm 1924 đến năm 1938 là một tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu
**_I-29_**, tên mã _Matsu_, là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm
**_I-69_**, sau đổi tên thành **_I-169_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**_I-15_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã
**_I-2_** là một tàu ngầm tuần dương lớp bao gồm bốn chiếc có trọng lượng choán nước lên đến 2.135 tấn, được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến
**_I-123_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 50_** và mang tên **_I-23_** từ năm 1927 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
**_I-26_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_I-66_**, sau đổi tên thành **_I-166_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai V nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1932. Nó đã phục vụ trong
**_I-58_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Đang khi chế tạo, nó được cải biến
**_I-372_** là một tàu ngầm vận tải thuộc lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-13_** là một tàu ngầm lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai, thuộc phân lớp Type A Cải tiến 2 (Type AM). Được
**_I-351_** là một tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc duy nhất của lớp tàu ngầm chở dầu _I-351_ () được Nhật Bản hoàn tất trong giai đoạn cuối Chiến tranh
**_I-12_** là một tàu ngầm lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai, thuộc phân lớp Type A Cải tiến 1 (Type A2). Nhập
**_I-8_** là một tàu ngầm tuần dương phân lớp bao gồm hai chiếc có khả năng mang máy bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó cùng với tàu chị em _I-7_ là những
**_I-68_**, sau đổi tên thành **_I-168_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**_I-176_** (nguyên là **_tàu ngầm số 154_**, rồi **_I-76_** cho đến ngày 20 tháng 5, 1942) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc
**_I-185_** (nguyên mang tên **_I-85_**) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1943. Nó đã hoạt động trong Chiến
**_I-52_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C3 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu ngầm
**_I-373_** là một tàu ngầm vận tải được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai, là chiếc duy nhất thuộc lớp Type D2 được
**_I-35_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_I-364_** là một tàu ngầm vận tải thuộc lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-36_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_I-179_** (nguyên là **_tàu ngầm số 157_**, rồi **_I-79_** cho đến ngày 1 tháng 11, 1941) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc
**_I-33_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_I-183_** (nguyên mang tên **_I-83_**) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1943. Nó đã hoạt động trong Chiến
**_I-366_** là một tàu ngầm vận tải thuộc lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-367_** là một tàu ngầm vận tải thuộc lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã tham
**_I-365_** là một tàu ngầm vận tải thuộc lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-6_** là một tàu ngầm tuần dương, là chiếc duy nhất thuộc phân lớp của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, và có khả năng mang máy bay. Nhập biên chế năm 1935, _I-6_ đã
**_I-3_** là một tàu ngầm tuần dương lớp bao gồm bốn chiếc có trọng lượng choán nước lên đến 2.135 tấn, được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến
**_I-47_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C2 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-53_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C3 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu ngầm
**_I-5_** là chiếc tàu ngầm mang máy bay đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản và đã hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Là chiếc duy nhất trong phân lớp
**_I-19_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_I-65_**, sau đổi tên thành **_I-165_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai V nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1932. Nó đã phục vụ trong
**_I-71_**, sau đổi tên thành **_I-171_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**_I-18_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã
**_I-10_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_I-56_**, sau đổi tên thành **_I-156_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIB nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1929. Trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_I-59_**, sau đổi tên thành **_I-159_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIB nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1929. Trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_I-27_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_I-64_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai IV nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1930. Nó đã phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_I-38_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó đã từng tham
**_I-57_**, sau đổi tên thành **_I-157_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIB nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1929. Trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_I-41_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó tham gia hoạt
**_I-177_** (nguyên là **_tàu ngầm số 155_**, rồi **_I-77_** cho đến ngày 20 tháng 5, 1942) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc