✨Quân chủng Hải quân, Quân đội nhân dân Việt Nam
Quân chủng Hải quân, hay còn gọi là Hải quân nhân dân Việt Nam, là một quân chủng của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Hải quân nhân dân Việt Nam có 6 đơn vị: Tàu mặt nước, Hải quân đánh bộ, Tên lửa-Pháo bờ biển, Không quân Hải quân, Tàu ngầm, Đặc công Hải quân,... ngoài ra còn có các đơn vị bảo đảm, phục vụ như Thông tin, Rađa, Tác chiến điện tử, Công binh, Hóa học. Quân chủng bao gồm các cấp đơn vị: hải đội, hải đoàn, binh đoàn Hải quân đánh bộ, binh đoàn tàu mặt nước, binh đoàn tàu ngầm, binh đoàn không quân, tên lửa bờ và các binh đoàn bộ đội chuyên môn, các đơn vị kỹ thuật, hậu cần....
Lịch sử
Những bước sơ khai
Ngay sau khi Cách mạng tháng 8 thành công, chính quyền Việt Minh tại nhiều tỉnh ven biển đã tổ chức các đội dân quân bảo vệ bờ biển. Nhiều chi đội Vệ quốc quân được điều về chốt giữ trên những địa bàn xung yếu. Các đơn vị sự này, tùy theo địa phương, mang tên gọi "Thủy quân" hoặc "Hải quân", với biên chế không đồng đều, trang bị cũng không thống nhất, đều chịu sự chỉ huy trực tiếp của các chỉ huy quân sự địa phương. Như tại Đà Nẵng, có tổ chức thủy quân miền Nam Trung Bộ, lực lượng gồm khoảng 400 người. Tại Hải Phòng, Bộ Tư lệnh khu Duyên Hải tổ chức Ủy ban Hải quân Việt Nam, với lực lượng chiến đấu được tổ chức thành Đại đội Ký Con với quân số gần 200 người, phương tiện hoạt động gồm một tàu nhỏ mang tên Bạch Đằng và 3 ca nô có nhiệm vụ hoạt động ở cửa biển Hải Phòng và vùng ven biển Đông Bắc. Từ đầu tháng 9 năm 1945 đến giữa tháng 5 năm 1946, các đơn vị thủy quân địa phương này tổ chức đánh nhiều trận gây thiệt hại cho quân Pháp trong quá trình tìm cách tái chiếm Đông Dương. Nhiều đơn vị đã hoạt động cho đến Chiến tranh Đông Dương kết thúc.
Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, ngày 22 tháng 5 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 71/SL về Quân đội Quốc gia Việt Nam, chính thức thống nhất và chính quy hóa lực lượng quân sự quốc gia. Đến ngày 19 tháng 7 năm 1946, Quyền Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Huỳnh Thúc Kháng ra Quyết định số 125/QĐ thành lập trong Quân đội Quốc gia Việt Nam ngành Hải quân Việt Nam, đặt dưới quyền Bộ Quốc phòng về phương diện quản trị và Quân sự Ủy viên hội về phương diện điều khiển. Ngày 10 tháng 9 năm 1946, Chủ tịch Quân sự Ủy viên hội Võ Nguyên Giáp ra Nghị định số 103/NĐ thành lập "Cơ quan Hải quân" (sau gọi là Hải đoàn bộ), do một Hải đoàn trưởng điều khiển trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu. Nhiệm vụ của Hải đoàn bộ là tổ chức thủy đội tuần tiễu và phỏng thủ duyên hải, tập trung các nhân viên, bộ đội thủy quân đã có trong Quân đội Quốc gia Việt Nam và tuyển lựa cựu thủy binh để thành lập ngay một tổ chức Hải quân. Tuy nhiên, do tình hình chiến sự lúc đó, các quyết định trên đều chưa có điều kiện thực hiện.
Tháng 2 năm 1950, khóa học thủy quân đầu tiên được khai giảng, gồm 180 học viên được tuyển chọn từ các đơn vị bộ binh, dân quân du kích vùng ven biển Đông Bắc, một số là học sinh các trường trung học ở Bắc Ninh, Bắc Giang, Phú Thọ, Vĩnh Yên, tổ chức thành một tiểu đoàn huấn luyện, do ông Trần Lưu Thông làm Tiểu đoàn trưởng. Đội ngũ giáo viên khoảng 10 người, đều là các nhân sự từng là thủy binh trong Hải quân Pháp hoặc trong ngành hàng hải Pháp. Cả Ban Nghiên cứu Thủy quân và tiểu đoàn huấn luyện mang phiên hiệu chung là Đội sản xuất 71.. Tổ chức biên chế của Cục Hải quân gồm 5 phòng (Tham mưu, Chính trị, Hậu cần, công trình và Đo đạc biển); 5 đơn vị trực thuộc: Trường Huấn luyện bờ biển (đổi thành Trường Huấn luyện hải quân), Đoàn 130, Đoàn 135, tiểu đoàn công binh 145 và Xưởng 46. Ngày 20 tháng 4 năm 1959, thành lập Đảng bộ Cục Hải quân trực thuộc và đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Tổng Quân ủy.
Các đơn vị chiến đấu lần lượt cũng được thành lập như ngày 18 tháng 5 năm 1959, thành lập Đoàn 135 (sau này đổi thành 140), đơn vị tàu tuần tiễu; ngày 3 tháng 8 năm 1961, thành lập căn cứ Hải quân I và căn cứ Hải quân II.
Từ sự kiện Quảng Khê đến sự kiện Vịnh Bắc Bộ
Đầu tháng 4 năm 1961, CIA phối hợp với Sở Khai thác địa hình thuộc Phủ Tổng thống Việt Nam Cộng hòa tổ chức cho điệp viên Ares thâm nhập miền Bắc Việt Nam bằng đường biển. Với lực lượng hải quân tuần tiễu còn non yếu của Hải quân nhân dân Việt Nam, tàu Nautilus 1 của CIA dễ dàng thâm nhập bờ biển Quảng Ninh. Sau đó, tàu CIA có thêm vài lần đưa điệp viên thâm nhập hoặc tiếp tế thành công. Trên cơ sở đó, CIA quyết định tổ chức tập kích vào căn cứ hải quân Quảng Khê của Hải quân nhân dân Việt Nam, nằm gần cửa sông Giang, thuộc tỉnh Quảng Bình. Mục tiêu là 3 chiếc tàu pháo thuộc lớp Swatow do Trung Quốc đóng. Trận tập kích diễn ra rạng sáng ngày 30 tháng 6 năm 1962, được đánh giá là thành công khi tiêu diệt được 2 tàu, nhưng cũng trả một giá rất đắt: toàn bộ thành viên tham gia tập kích đều bị giết hoặc bị bắt sống, tàu vận tải Nautilus 2 của bị tàu pháo T-161 của Hải quân nhân dân Việt Nam tiêu diệt, chỉ duy nhất một thành viên là Nguyễn Văn Ngọc thoát được.
Ngày 3 tháng 1 năm 1964, Cục Hải quân đổi tên thành Bộ Tư lệnh Hải quân
Ngày 5 tháng 8 năm 1964, ngày đánh trả thành công chiến dịch Mũi Tên Xuyên - cuộc tập kích đầu tiên bằng không quân của Mỹ vào miền Bắc Việt Nam.
Ngày 13 tháng 4 năm 1966, thành lập Đoàn 126 (Đoàn Đặc công Hải quân nay là Lữ đoàn 126)
Đoàn tàu không số
Ngày 23 tháng 10 năm 1961, thành lập Đoàn 759 (Đoàn Vận tải Quân sự đường biển nay là Lữ đoàn 125). Nhiệm vụ chính của đơn vị này khi mới thành lập là bí mật vận tải vũ khí, cán bộ bằng đường biển (Đường Hồ Chí Minh trên biển) từ miền Bắc vào miền Nam chi viện cho Quân Giải phóng miền Nam chiến đấu trong Chiến tranh Việt Nam.
Thời kỳ đó, căn cứ của lữ đoàn là bến Bính (số hiệu là K20) ở Hải Phòng. Đơn vị sử dụng các tàu vận tải cỡ nhỏ thâm nhập miền Nam tại các căn cứ ở bến Sông Gianh (Quảng Bình), Sa Kỳ (Quảng Ngãi), Vũng Rô (Phú Yên), Lộc An (Bà Rịa - Vũng Tàu), Thạnh Phong (Bến Tre) và Vàm Lũng (Cà Mau).
Trong Chiến tranh Việt Nam, đơn vị đã sử dụng các tàu vận tải cỡ nhỏ để thâm nhập vào miền Nam. Mặc dù có số hiệu đầy đủ, song để giữ bí mật, các tàu này không sơn số hiệu lên thân tàu. Vì thế, những con tàu này được biết đến với tên gọi chung là Đoàn tàu Không số.
Sau năm 1975
Ngày 5 tháng 9 năm 1975, sáp nhập Trung đoàn 126, Trung đoàn 46 thành Lữ đoàn 126 Hải quân đánh bộ
Ngày 13 tháng 9 năm 1975, tổ chức các đơn vị phòng thủ đảo.
Ngày 26 tháng 10 năm 1975, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 141/QĐ-QP thành lập 5 vùng duyên hải thuộc Bộ Tư lệnh hải quân.
Năm 1978 giải thể vùng 2 và đổi tên vùng duyên hải thành vùng hải quân.
Ngày 5 tháng 7 năm 1978, thành lập Trung đoàn 147 Hải quân đánh bộ nay là Lữ đoàn 147
Ngày 23 tháng 6 năm 1979, thành lập Tiểu đoàn Tên lửa 679 trực thuộc Bộ Tư lệnh Hải quân (nay là Lữ đoàn 679)
Ngày 14 tháng 3 năm 1988, Hải quân nhân dân Việt Nam đụng độ với Hải quân Trung Quốc tại đảo Gạc Ma, Cô Lin và Len Đao.
Hiện đại hóa trong thời kỳ mới
Ngày 31 tháng 8 năm 1998, lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam làm lễ ra mắt.
Tháng 11 năm 2008, lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam trở thành một lực lượng độc lập với Hải quân nhân dân Việt Nam.
Ngày 14 tháng 1 năm 2011, Bộ Quốc phòng ra Quyết định nâng cấp Bộ Chỉ huy Vùng Hải quân lên thành Bộ Tư lệnh Vùng Hải quân
Ngày 3 tháng 7 năm 2013, thành lập Lữ đoàn Không quân hải quân 954, hình thành lực lượng không quân hải quân đầu tiên.
Tổ chức chính quyền
Sơ đồ tổ chức
giữa|1000x1000px
Tổ chức chi tiết
Tổ chức chung
Tổ chức Hải quân Nhân dân Việt Nam từ cao đến thấp như sau:
- Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân trực thuộc Bộ Quốc phòng;
- Bộ Tư lệnh Vùng Hải quân (1, 2, 3, 4, 5);
- Lữ đoàn Hải quân;
- Trung đoàn Hải quân;
- Hải đoàn;
- Hải đội.
Về tổ chức cấp Hạm đội (tương đương cấp Quân đoàn ở Lục quân), trước đây vào những năm 1970, Hải quân nhân dân Việt Nam từng tổ chức một hạm đội tàu chiến cơ động mang phiên hiệu Hạm đội 171 trên cơ sở sáp nhập Trung đoàn 171 và Trung đoàn 175 vào ngày 10 tháng 10 năm 1975. Năm 1981, thực hiện chủ trương chấn chỉnh lực lượng, tinh giảm biên chế của Quân ủy Trung ương, Hạm đội 171 rút gọn lại thành một lữ đoàn cơ động của quân chủng mang phiên hiệu Lữ đoàn 171. Như vậy, hiện nay Hải quân nhân dân Việt Nam chỉ tồn tại tổ chức chiến dịch cấp Lữ đoàn là lớn nhất.
Quân hàm hải quân
Trước năm 1981, quân hàm cấp tướng của quân chủng hải quân chưa có tên gọi riêng. Từ năm 1981, quân hàm các cấp tướng trong hải quân mới có tên gọi riêng, theo cách gọi của Liên Xô: Đô đốc (tương đương Thượng tướng), Phó Đô đốc (tương đương Trung tướng), Chuẩn Đô đốc (tương đương Thiếu tướng), được quy định lần đầu tiên trong Luật sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam ban hành ngày 31 tháng 12 năm 1981. Về phù hiệu và cấp hiệu quân hàm xem bài Quân đội nhân dân Việt Nam và Quân hàm Quân đội nhân dân Việt Nam
Trong lịch sử Hải quân nhân dân Việt Nam chỉ có 2 sĩ quan Hải quân lên tới cấp Đô đốc là Giáp Văn Cương (phong năm 1988) và Nguyễn Văn Hiến (phong năm 2011).
Theo Luật sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam (2014):
- Chỉ phong Đô đốc tương đương Thượng tướng khi Tư lệnh hoặc Chính ủy Quân chủng Hải quân Việt Nam kiêm một trong những chức vụ như: Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam, Phó Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam.
- Phó Đô đốc tương đương Trung tướng là bậc quân hàm cao nhất của quân nhân giữ chức vụ Tư lệnh và Chính ủy Quân chủng Hải quân.
- Chuẩn Đô đốc tương đương Thiếu tướng là bậc quân hàm cao nhất của quân nhân giữ chức vụ Phó Tư lệnh và Phó Chính ủy Quân chủng Hải quân, Tư lệnh và Chính ủy Bộ Tư lệnh Vùng Hải quân. Tham mưu phó Quân chủng Hải quân & Phó chủ nhiệm chính trị Quân chủng Hải quân.
- Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm Tư lệnh và Chính ủy Quân chủng Hải quân.
Từ năm 2019, các sĩ quan cấp tướng từ các cơ quan, quân chủng, binh chủng khác được điều chuyển về công tác ở quân chủng Hải quân thì quân hàm của họ vẫn sẽ gọi là Thiếu tướng, Trung tướng hay Thượng tướng và không cần phải gọi là Chuẩn đô đốc, Phó đô đốc hay Đô đốc theo cách gọi quân hàm Hải quân. Ví dụ như Trung tướng Nguyễn Văn Bổng, Chính ủy quân chủng Hải quân hiện nay do ông có thời gian làm Chánh văn phòng Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng. Trước đó, Thiếu tướng Lê Minh Thành, Phó tư lệnh Quân chủng PK-KQ, khi chuyển sang giữ chức vụ Phó tư lệnh Quân chủ Hải quân, vẫn được phiên cấp bậc Chuẩn đô đốc.
Tư lệnh qua các thời kỳ
Xem bài: Tư lệnh Quân chủng Hải quân Nhân dân Việt Nam
Chính ủy qua các thời kỳ
Tham mưu trưởng qua các thời kỳ
Xem bài: Tham mưu trưởng Quân chủng Hải quân Nhân dân Việt Nam
Phó Tư lệnh qua các thời kỳ
Phó Chính ủy qua các thời kỳ
Các tướng lĩnh khác
Trang bị
Binh chủng Tên lửa- Pháo bờ biển
Pháo
Tên lửa phòng thủ bờ biển
Tên lửa chống hạm
Binh chủng Tàu mặt nước
Trang bị hiện tại
Trang bị từng sử dụng
- Tàu tên lửa lớp Shantou (sử dụng trong Sự kiện vịnh Bắc Bộ)
- Tàu tên lửa lớp Komar (ngừng sử dụng thập niên 1980)
Binh chủng Tàu ngầm
Trang bị hiện tại
Binh chủng Hải quân đánh bộ
Trang bị hiện nay
Lực lượng đặc nhiệm hải quân
Trang bị hiện nay:
Vũ khí bộ binh:
- Makarov PM Súng ngắn 9x18 mm
- CZ-83 Súng ngắn 9x18mm/9x19mm
- AKM Súng trường tấn công 7,62x39mm
- AKMS Phiên bản báng gập của AKM
- AK-74 Súng trường tấn công 5,45x39mm
- AKS-74 Phiên bản báng gập của AK-74
- APS Súng trường tấn công dưới nước
- CAR-15/M-18 Súng carbine 5,56x45mm
- RPK Súng máy hạng nhẹ 7,62x39mm
- RPK-74 Súng máy hạng nhẹ 5,45x39mm
- SVD Súng bắn tỉa 7,62x54mm
- SVU Súng bắn tỉa 7,62x54mm
- IMI Galatz Súng bắn tỉa 7,62x51mm
- RPG-7V Súng phóng lựu chống tăng (hay còn gọi là B-41)
- M-79 Súng phóng lựu chống bộ binh
- Milkor MGL Súng phóng lựu chống bộ binh.
Phương tiện cơ giới quân sự hỗ trợ:
- Xuồng cao tốc đổ bộ CQ
- Trực thăng vận tải/cứu hộ Mil Mi-171/Mi-17Sh
Binh chủng Không quân Hải quân
! style="text-align: center; background: #aacccc;"|Ảnh ! style="text-align: center; background: #aacccc;"|Nước SX ! style="text-align: center; background: #aacccc;"|Tên ! style="text-align: center; background: #aacccc;"|Số lượng ! style="text-align: center; background: #aacccc;"|Nhiệm vụ ! style="text-align: center; background: #aacccc;"|Số hiệu |----- ! style="align: center; background: lavender;" colspan="6" | Trực thăng |----- |Tập tin:Kamov Ka-27PS.JPEG | |Ka-27 |8 |Trực thăng săn ngầm |7520, 7523, 7524, 7525, 7526, 7527 |----- |Tập tin:Kamov Ka-32S Omega Hc Moscow 2004.jpg | |Ka-32 |1 |Trực thăng vận tải |3552 |----- |Tập tin:EUROCOPTER EC225 01.JPG | |EC-225 |2 |Trực thăng vận tải |VNT-768, VNT-769 |-----|----- ! style="align: center; background: lavender;" colspan="6" | Máy bay cánh cố định |----- |Tập tin:FMG DHC-6 Twin Otter.JPG | |DHC-6-400 |6 |Máy bay vận tải, tuần thám biển, thả hàng dù |VNT-771, VNT-772, VNT-773, VNT-775, VNT-777, VNT-778 |}
Tên lửa chống hạm
- P-15M Tên lửa chống hạm cận âm
- P-5 Pyatyorka Tên lửa chống hạm siêu âm
- / Kh-35E/VCM-01 Tên lửa chống hạm cận âm (3000 quả)
- Extra Đạn phản lực có dẫn đường
- Accular Đạn phản lực có dẫn đường
- P-800 Yakhont Tên lửa chống hạm siêu âm (60 quả)
- 3M-54E Tên lửa chống hạm siêu âm, phóng từ tàu ngầm Kilo Project 636M (120 quả)
Ngư lôi
- VA-111 Shkval Ngư lôi dành cho tàu ngầm lớp Kilo
- ngư lôi cỡ 400mm
- / 53-65 Ngư lôi dành cho tàu ngầm lớp Kilo, tàu phóng lôi
Thủy lôi
- / KMP Thủy lôi chạm nổ chống tàu mặt nước
- UĐM Thủy lôi từ trường chống tàu ngầm và tàu mặt nước.
Phong tặng
*2 Huân chương Sao vàng (lần 2 năm 2010)
- Danh hiệu Đơn vị Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Lệnh số 316/KT-HĐNN8, ngày 13 tháng 12 năm 1989. Lần 2 năm 2015.
- 1 Huân chương Sao vàng (thành tích 30 năm xây dựng Quân chủng, Lệnh số 721/KT-HĐNN7 ngày 18 tháng 7 năm 1985).
- 1 Huân chương Hồ Chí Minh (thành tích 20 năm xây dựng trưởng thành và làm nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam, ngày 18 tháng 3 năm 1979).
- 1 Huân chương Độc lập hạng Nhất (nhân kỷ niệm 45 năm ngày thành lập Hải quân nhân dân Việt Nam và thời kỳ Đổi mới), Lệnh số 166/KT-CTN ngày 4 tháng 5 năm 2000.
- 1 Huân chương Độc lập hạng Nhì (thành tích 10 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân chủng, Lệnh số 9/LCT ngày 29 tháng 8 năm 1965).
- 1 Huân chương Quân công hạng Nhất (thành tích 40 năm xây dựng và chiến đấu của Quân chủng, Lệnh số 580/KT-CTN ngày 10 tháng 12 năm 1984).
- 1 Huân chương Quân công hạng Nhì (về thành tích xuất sắc trong chiến đấu đánh thắng trận đầu, Lệnh số 31/LCT ngày 7 tháng 8 năm 1964).
- 1 Huân chương Quân công hạng Nhì thành tích làm nhiệm vụ chiến đấu ở Tây Nam và nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, Lệnh số 286/HĐNN7 ngày 20 tháng 3 năm 1983).
- 1 Huân chương Lao động hạng Ba.