✨Chiến sĩ "Việt Nam mới"

Chiến sĩ "Việt Nam mới"

Chiến sĩ "Việt Nam mới" hay người "Việt Nam mới" là tên gọi những người nước ngoài tình nguyện tham gia hàng ngũ Quân đội nhân dân Việt Nam chiến đấu trong giai đoạn Kháng chiến chống Pháp.

Lịch sử

Những người "Việt Nam mới" đến từ nhiều quốc gia, trong đó chủ yếu phân thành hai nhóm chính:

  • Binh sĩ, sĩ quan của Đế quốc Nhật Bản ở lại Việt Nam và tham gia Việt Minh sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc vào tháng 8 năm 1945. Có khoảng 800 người, trong đó có khá nhiều sĩ quan cao cấp như Đại tá Ikawa, Trung tá Ishii - Nguyễn Văn Thông, Đại tá Mukayama - sĩ quan tham mưu của Quân đoàn 38... Mặc dù chiến tranh đã kết thúc nhưng họ vẫn chịu ảnh hưởng bởi chủ thuyết "Cộng đồng phồn vinh Đại Đông Á". Nội dung của chủ thuyết này là: "Đông Á và Đông Nam Á là của người da vàng, không phải của bọn da trắng Âu châu". Họ không muốn quay về Tổ quốc bại trận và bị Mỹ chiếm đóng nên tình nguyện tham chiến cùng Quân đội nhân dân Việt Nam để chống Pháp. Họ hỗ trợ rất nhiều về vũ khí, chiến thuật tác chiến, huấn luyện quân sự, đào tạo ngoại ngữ,...cho các chiến sĩ Việt Minh còn non trẻ.
  • Binh sĩ lính lê dương và Bắc Phi trong quân đội Pháp trong Quân đội viễn chinh Pháp vùng Viễn Đông chạy sang hàng ngũ Việt Minh trong thời gian 1945-1954. Số này có khoảng 1300-1500 người, chủ yếu là binh sĩ và hạ sĩ quan lê dương người Pháp, Đức, Áo, Bỉ, Hy Lạp, Ý, Tây Ban Nha, Đan Mạch, Ba Lan, Tiệp Khắc, Ukraina, Tunisia, Maroc, Algérie, Một nhóm nhỏ trong số này là những người cộng sản (Ernst Frey, Erwin Borscher, Rudy Schröder, Kostas Sarantidis,...) đã chủ động tham gia Việt Minh ngay từ tháng 9 năm 1945.

Ngoài ra còn có một số ít chiến sĩ tình nguyện người Pháp, Hoa, Lào, Campuchia, Malaysia, Thái Lan, Singapore...

Những người nước ngoài tham gia Việt Minh không phải đều là "hàng binh", vì vậy để tránh gây ngộ nhận, mặc cảm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt tên chung cho họ là "người Việt Nam mới".

Những người "Việt Nam mới" tham gia đóng góp trên nhiều lĩnh vực. Phần lớn trở thành cán bộ hoặc binh sĩ trong các đơn vị chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam. Những người có kiến thức quân sự (đặc biệt là các sĩ quan Nhật và một số lính và sĩ quan lê dương) trực tiếp tham gia trong các ngành chỉ huy, tham mưu, kỹ thuật, huấn luyện, quân y, quân giới, tuyên truyền, tình báo... Việt Minh còn tổ chức những đội đặc công gồm cả người Việt Nam và Âu Phi làm nhiệm vụ vũ trang tuyên truyền, cải trang tập kích các đồn của quân Pháp...

Trong giai đoạn đầu chiến tranh khi lực lượng vũ trang Việt Minh còn non trẻ, gặp nhiều khó khăn, kinh nghiệm và kiến thức của những người "Việt Nam mới" đã có công đóng góp không nhỏ vào sự phát triển của Quân đội nhân dân Việt Nam. Nhiều người được giao trọng trách và phong quân hàm sĩ quan cao cấp như Đại tá Ernst Frey - Nguyễn Dân (Áo), Ishii - Nguyễn Văn Thông (Nhật), Saito - Nguyễn Thanh Tâm (Nhật), Trung tá Erwin Borchers - Chiến sĩ (Đức)...

Năm 1950, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà bắt đầu nhận được sự trợ giúp của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, phần lớn những người "Việt Nam mới" ở Bắc Bộ được giải ngũ về đảm nhận các công tác dân sự. Những người ở Trung Bộ và Nam Bộ tiếp tục chiến đấu cho đến khi chiến tranh kết thúc.

Những quân nhân người châu Âu được đưa về nước qua đường Trung Quốc - Liên Xô trong những năm 1951-1954. Quân nhân Nhật về nước trong những năm 1954-1960 theo thoả thuận của Hội chữ thập đỏ hai nước. Quân nhân Bắc Phi về nước trong thời gian từ 1954 đến đầu những năm 1970 sau khi các quốc gia châu Phi giành được độc lập.

Vì nhiều lý do, phần lớn những người châu Âu và Nhật phải để gia đình lại Việt Nam. Sau khi trở về nước, họ cũng gặp nhiều khó khăn từ chính quyền và dân địa phương do đã tham gia quân đội của một nước xã hội chủ nghĩa, một số còn bị xét xử vì tội "phản quốc". Tuy nhiên nhiều người cũng tham gia vào việc giao lưu văn hoá, thúc đẩy quan hệ giữa nước họ với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau này.

Chiến sỹ người Hy Lạp

Nguyễn Văn Lập tên khai sinh Kostas Sarantidis (tiếng Hy Lạp: Κώστας Σαραντίδης) là một chiến sĩ Việt Nam mới. Ông là người nước ngoài duy nhất từng được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân của Việt Nam, và cũng có thể là người Hy Lạp duy nhất từng sát cánh bên cạnh lực lượng Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp.

Ông đã từng nói: "Tôi coi Việt Nam như quê hương tổ quốc của tôi."

Đảng, Nhà nước Việt Nam đã tặng ông nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương chiến công hạng Nhất, Huân chương Hữu nghị. Ngày 9-11-2010, ông được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nguyễn Minh Triết quyết định công nhận là công dân Việt Nam, điều mà ông mong đợi trong nhiều năm. Tháng 5 năm 2013, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã ký quyết định số 934-QĐ/CTN tặng ông danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. Lễ trao tặng được tổ chức trọng thể tại Bộ Quốc phòng Việt Nam vào cuối tháng 8-2013. Ông qua đời vào ngày 25/6/2021 tại Hy Lạp, hưởng thọ 94 tuổi.

Chiến sỹ người Nhật

Khi Nhật đã bại trận, ở Việt Nam có khoảng 8 vạn lính Nhật, họ chờ bị giải giới và hồi hương về Nhật. Có khoảng vài trăm lính Nhật, vì một số lý do, đã chiến đấu trong hàng ngũ quân Việt Nam chống Pháp, một số người trong số họ còn giữ các chức vụ chỉ huy. Ông Oka Kazuaki (cựu Hội trưởng Hội hữu nghị Nhật - Việt) cho rằng có khoảng 800 người Nhật ở lại Việt Nam, trong đó 186 người từng tham gia Việt Minh. C.E. Goscha ước tính có “tối đa là 200 người từ năm 1945 đến năm 1950 đã theo Việt Minh”. Ikawa Kazuhisa, dựa vào tài liệu “Bản danh sách những người chưa về nước từ Đông Dương thuộc Pháp” của Bộ Lao động và Y tế Nhật Bản ban hành tháng 7-1955 đã ước tính số quân nhân Nhật Bản đào ngũ và còn ở lại Việt Nam tính đến cuối năm 1946 là 800 người, trong đó số người tham gia Việt Minh khoảng 600 người và ước tính “khoảng một nửa trong số đó đã ngã xuống trên mảnh đất Việt Nam”.

Một số sĩ quan Nhật đã trở thành sĩ quan cao cấp trong quân đội Việt Nam như Thiếu tá Ishii Takuo đã trở thành Đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam, từng là lãnh đạo Học viện Quân sự Quảng Ngãi (tại trường này còn có 10 cựu sĩ quan Nhật Bản làm giảng viên), và sau đó giữ chức “cố vấn trưởng” lực lượng vũ trang Việt Minh ở miền Nam Việt Nam. Đại tá Mukayama, người từng thuộc Ban tham mưu Tập đoàn quân số 38 Quân đội Hoàng gia Nhật Bản, đã trở thành cố vấn cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Tại các bệnh viện ở Việt Nam đầu thời kỳ kháng chiến chống Pháp có 2 bác sĩ và 11 nữ y tá Nhật Bản làm việc. Người Việt Nam mới gốc Nhật cũng phụ trách việc sửa chữa - sản xuất vũ khí, tham gia công tác như y tế, dược sĩ, lái xe, kỹ sư khai thác khoáng sản...

Có ít nhất 41 người Nhật tham dự những chiến dịch lớn hoặc chiến đấu ở các mặt trận địa phương: Chiến dịch Việt Bắc, Chiến dịch Biên giới, Chiến dịch đường số 14; các mặt trận ở khắp Việt Nam. Một số người Nhật “Việt Nam mới” là những chiến binh quả cảm, được các chiến sĩ Việt Nam cảm phục. Có người hy sinh (Ikawa Sei - Lê Chí Ngọ hy sinh năm 1946 ở Pleiku do trúng bom của máy bay Pháp, Yasuda - Hồ Chí Tâm hy sinh năm 1946 ở Hà Nội), nhiều người bị thương (Yutumo Suchio - Nguyễn Đức Hồng, Nakano Isao - Nguyễn Văn Lợi, Mabaki Yoshira - Hồ Tâm, Nobumino Taoto - Nguyễn Văn Hiển, Iwai Koshio - Nguyễn Văn Sáu, Nakamura Ichitaro - Trần Hòa, Yamazaki Zensaku - Trần Hà, Nobuyoshi Tachibana - Trần Đức Trung, Katsuo Uykawa - Ngô Tử Cân, Takeshi Amakawa - Lê Tùng...)

Tiêu biểu cho người Việt Nam mới hy sinh khi chống Pháp là ông Ikawa Sei (14/04/1913 - 20/06/1946). Ông sinh ra tại Ibaraki, là con trai của một Hiệu trưởng trường tiểu học. Năm 1935, ông tốt nghiệp trường sĩ quan Lục quân Đế quốc Nhật Bản. Tháng 8 năm 1937, Ikawa Sei được thăng quân hàm Trung uý, năm 1939 được thăng Đại uý, và năm 1942 thăng lên Thiếu tá. Tháng 5/1945, Ikawa Sei được cử tới Huế, làm Tham mưu trưởng Lữ đoàn hỗn hợp 34. Trong cuộc Cách mạng Tháng Tám của Việt Nam, ông ra lệnh cho phụ tá của mình là Mitsunobu Nakahara mở kho vũ khí thu được của Pháp để Việt Minh sử dụng. Ông cũng gặp gỡ Nguyễn Sơn - Thiếu tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam - để thoả thuận về việc huấn luyện cho quân đội Việt Nam kháng chiến chống lại thực dân phương Tây. Sau lần gặp tướng Nguyễn Sơn ở Huế, Ikawa đã suy nghĩ nhiều, ông tập hợp những người Nhật dưới quyền và giải thích, đại ý

Trường Lục quân trung học Quảng Ngãi (một trong ba trường đào tạo sĩ quan quân đội chính qui đầu tiên của Việt Nam) khai giảng vào ngày 1-6-1946 với khoảng 400 học viên. Trường có 11 người Nhật làm giáo viên huấn luyện quân sự, 4 giáo viên chính của 4 đại đội là: Tanimoto Kikuo - Đông Hưng, Mitsunobu Nakahara - Minh Ngọc, Ikari Kazumasa - Phan Lai, Kamo Tokuji - Phan Huệ. 4 giáo viên trợ giảng là: Aoyama Hiroshi, Onishi Suegami, Namada Suegami, Minegishi Sadai. Ban huấn luyện có 2 người Nhật là: Ishii Taku - Nguyễn Văn Thống, Sato - Minh Tâm. Quân y có bác sĩ Kisei Fujio - Lê Trung. Bài giảng của giáo viên Nhật Bản được biên soạn theo cuốn _“Bộ binh thao điển của quân đội Nhật. Ông Kamo Tokuji hồi tưởng lại: :“Nói đúng ra thì hồi đó tôi không muốn nhìn thấy một nước Nhật bị quân đội Mỹ chiếm đóng, đó mới là thực tâm của tôi. Trong thời chiến tôi đã nhìn thấy lính Nhật làm nhiều điều nhũng nhiễu dân chúng các nơi, và bản thân tôi thú thật cũng đã từng làm như vậy, cho nên bây giờ tôi không thể chịu nổi khi nghĩ rằng sẽ phải trông thấy lính Mỹ chiếm đóng và hoành hành trên quê hương mình._ :Thế còn tại sao tôi lại ở lại Việt Nam, nói thật ra cũng chẳng phải vì tôi muốn tham gia cách mạng, tôi nhập ngũ rồi được đưa sang Việt Nam, chứ tôi không biết gì về Việt Nam cả. Thế nhưng, khi chứng kiến cảnh người Việt Nam vui mừng giành lại được độc lập và ngày nào họ cũng đi biểu tình đến nửa đêm, trong lòng tôi cũng cảm thấy có những tình cảm tương tự như họ. Có lẽ vì nghĩ như vậy nên dần dần tôi có ý nghĩ rằng nếu không trở về Nhật nữa thì ta ở lại Việt Nam cho đến khi gửi nắm xương tàn ở đây cũng được”.

Trong chiến dịch đường số 4, có một người Nhật gọi là "Sáu Nhật" (tên Nhật Iwai Koshiro) giữ chức đại đội trưởng đội trinh sát, có nhiệm vụ nghiên cứu địa hình, điều tra, vẽ sơ đồ để đề xuất phương án tác chiến. Ông Sáu Nhật có trình độ quân sự vì là sĩ quan Nhật cũ, lại dũng cảm nên có công rất lớn. Ông từng được thăng lên chức tiểu đoàn phó, được kết nạp Đảng khi mới 26 tuổi dù là người nước ngoài. Ông Sáu Nhật sau khi hồi hương là một trong những người đã thành lập Hội Thương mại Việt - Nhật. Ông Hoàng Đình Tùng (Fujita Isamu) trước đây làm ở Yokohama Bank nên có kinh nghiệm, đã giúp nhiều ý kiến về thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, sau khi về Nhật ông là tổng thư ký đầu tiên của Hội Thương mại Việt - Nhật

Có ít nhất 20 người Nhật “Việt Nam mới” đã nhận được huân huy chương các loại của Chính phủ và Quân đội nhân dân Việt Nam Nhà nghiên cứu Ikawa Kazuhisa đã tiến hành điều tra tại Nhật Bản và có danh sách 128 người Việt Nam mới gốc Nhật (trong đó 102 người hồi hương từ miền Bắc Việt Nam, 26 người hồi hương từ miền Nam Việt Nam)

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chiến sĩ "Việt Nam mới"** hay **người "Việt Nam mới"** là tên gọi những người nước ngoài tình nguyện tham gia hàng ngũ Quân đội nhân dân Việt Nam chiến đấu trong giai đoạn Kháng
**Chiến sĩ Việt Nam** là một ca khúc do Nhạc sĩ Văn Cao sáng tác đầu thập niên 40, khoảng năm 1944, lúc quân đội Việt Nam còn chưa được thành lập. Cùng lúc, Văn
Trong Chiến tranh Việt Nam, quân đội Hoa Kỳ và các lực lượng đồng minh đã gây ra hàng loạt tội ác như giết người, hãm hiếp, đánh đập tù nhân, ném bom vào thường
right|thumb|upright=1.2|Lính nhảy dù Mỹ thuộc Lữ đoàn dù 173 tuần tra vào tháng 3 năm 1966 **Hoa Kỳ can thiệp quân sự tại Việt Nam** trong giai đoạn 1948–1975 là quá trình diễn biến của
**Tình hình Miền Bắc Việt Nam giai đoạn 1954-1959** là một phần của Chiến tranh Việt Nam, (Xem Hiệp định Genève). Đây là thời kỳ miền Bắc phục hồi các vết thương chiến tranh, xây
thumb|phải|220x220px|SP4 Ruediger Richter ([[Columbus, Georgia), Tiểu đoàn 4, Trung đoàn Bộ binh 503, Lữ đoàn nhảy dù chiến đấu 173 đưa mắt mệt mỏi vì trận đánh đang nhìn lên bầu trời trong khi Trung
**Chiến tranh cục bộ** là một chiến lược quân sự của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam (giai đoạn 1965-1968). Nội dung cơ bản của chiến lược này là tận dụng ưu thế hỏa
**Lực lượng biệt kích Hoa Kỳ và đồng minh trong Chiến tranh Việt Nam** nói về những đơn vị quân sự đặc biệt trong Chiến tranh Việt Nam hoạt động dưới sự điều hành trực
nhỏ| Pháo đài bay **B-52** của Không lực [[Hoa Kỳ]] Máy bay **B-52** là loại máy bay ném bom chiến lược hạng nặng, tầm xa, rất nổi tiếng của Không quân Hoa Kỳ, do hãng
**Tình hình Miền Nam Việt Nam giai đoạn 1960-1965** là một giai đoạn của Chiến tranh Việt Nam ở miền Nam Việt Nam. Giai đoạn 1960-1965 trong lịch sử Miền Nam Việt Nam là một
nhỏ|Những người biểu tình trong Chiến tranh Việt Nam tuần hành tại [[Lầu năm góc ở Washington, D.C. vào ngày 21 tháng 10 năm 1967.]] **Phong trào phản chiến trong Chiến tranh Việt Nam** là
**Đình chỉ chiến tranh Việt Nam** (tiếng Anh: _Moratorium to End the War in Vietnam_) là một thuật ngữ ám chỉ một loạt các cuộc biểu tình và tuyên truyền quy mô lớn trên khắp
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên dưới sự lãnh đạo của chủ tịch Kim Nhật Thành đã từng đóng vai trò hạn chế trong chiến tranh Việt Nam. Từ năm 1965 đến 1968,
Chiến tranh Việt Nam là một trong những cuộc chiến tốn kém nhất trong lịch sử nhân loại vào thời điểm nó diễn ra. Những quốc gia có sự can thiệp sâu rộng như Hoa
thumb|Đạo diễn Ken Burns nói về bộ phim **The Vietnam War** hay **Chiến tranh Việt Nam** là một bộ phim tài liệu truyền hình của Mỹ do Geoffrey C. Ward viết kịch bản và Ken
Hàn Quốc dưới thời kỳ cầm quyền của tổng thống Park Chung-hee đã can thiệp sâu rộng vào chiến tranh Việt Nam. Từ năm 1964 đến 1973, Hàn Quốc đã gửi hơn 325.000 quân nhân
**Tình hình Miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1959** là một giai đoạn của Chiến tranh Việt Nam ở miền Nam Việt Nam. Trong lịch sử quân sự Việt Nam hiện đại, giai đoạn này
Chiến thuật **trực thăng vận trong Chiến tranh Việt Nam** thường được biết đến với những tên gọi khác là **Chiến thuật Đại bàng bay** hay **Hổ bay, Chim ưng, Kẻ bình định, Lực lượng
**Đài tưởng niệm Chiến tranh Việt Nam**, hay **Bức tường Chiến tranh Việt Nam** (tiếng Anh: _Vietnam Veterans Memorial_), là đài tưởng niệm có hình một bức tường dài, hình chữ V, bằng đá, khắc
**Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam** là quá trình hình thành, phát triển của lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam. Nhà nước Việt Nam xem đây là đội quân từ nhân
**Quốc gia Việt Nam** () là một chính phủ thuộc Liên bang Đông Dương thuộc Liên hiệp Pháp, tuyên bố chủ quyền toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, tồn tại trong giai đoạn từ giữa
**Đoàn cố vấn quân sự Liên Xô tại Việt Nam** () là một đội hình quân sự tổng hợp của Lực lượng Vũ trang Liên Xô được đưa đến Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
nhỏ|Ảnh chụp thực tế mảnh vải với họa tiết K20 của [[Quân đội nhân dân Việt Nam, phiên bản màu dành cho Lục quân. Đây cũng là phiên bản được biên chế rộng rãi nhất
**Chiến cục năm 1972** là tổ hợp các hoạt động tấn công quân sự chiến lược của Quân đội nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trên chiến trường miền
**Cuộc đảo chính tại Nam Việt Nam năm 1963** là cuộc đảo chính nhằm lật đổ chính thể Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam của Tổng thống Ngô Đình Diệm và Đảng Cần lao Nhân
**Học tập cải tạo tại Việt Nam** là tên gọi hình thức giam giữ mà chính quyền Việt Nam thực hiện đối với một bộ phận các nhân vật mà các chính phủ sở tại
**Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam** (phía Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa và các đồng minh thường gọi là **Việt Cộng**) là một tổ chức liên minh chính trị hoạt
**Mặt trận đất đối không miền Bắc Việt Nam năm 1972** chứa đựng nhiều diễn biến hoạt động quân sự quan trọng của các bên trong Chiến cục năm 1972 tại Việt Nam. Đây là
nhỏ|175|phải|Một nhóm người vượt biển trên một con thuyền nhỏ Bà mẹ và 3 đứa con được đưa lên tàu chở dầu Wabash **Thuyền nhân Việt Nam** là hiện tượng gần một triệu người, vượt
Năm 2025 có nhiều sự kiện trọng đại diễn ra tại Việt Nam. Về mặt chính trị, đây là thời gian tổ chức Đại hội Đại biểu Đảng bộ các cấp nhiệm kỳ nhiệm kỳ
**Việt Nam Dân chủ Cộng hòa** (**VNDCCH**), cũng được gọi là **Bắc Việt** (), là một nhà nước ở Đông Nam Á tồn tại từ năm 1945 đến năm 1976. Là một thành viên Khối
**Việt Nam hóa chiến tranh** (tiếng Anh: _Vietnamization_) hay **Đông Dương hóa chiến tranh** là chiến lược của Chính phủ Hoa Kỳ dưới thời tổng thống Richard Nixon trong Chiến tranh Việt Nam, được áp
thumb|upright|Biểu ngữ kêu gọi người Việt Nam ở nước ngoài tham gia xây dựng đất nước **Hòa giải và hòa hợp dân tộc ở Việt Nam** là một khái niệm để chỉ sự hòa giải
**Đảng Cộng sản Việt Nam** là đảng cầm quyền và là chính đảng duy nhất được phép hoạt động tại Việt Nam theo Hiến pháp. Theo Cương lĩnh và Điều lệ chính thức hiện nay,
**Chiến tranh biên giới Việt Nam – Campuchia**, hay còn được gọi là **Chiến tranh biên giới Tây Nam**; , UNGEGN: _Sângkréam Kâmpŭchéa-Viĕtnam_; Những người theo chủ nghĩa dân tộc Khmer gọi là **Việt
Trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam, **Những vụ tấn công vào đô thị Miền Nam trong chiến tranh Việt Nam** chủ yếu được thực hiện bởi các lực lượng đặc công và du kích
nhỏ|Một nữ y tá và những trẻ em tị nạn trong chiến dịch Không vận Trẻ em Việt Nam **Chiến dịch Không vận Trẻ em** (tiếng Anh: **Operation Babylift**) là một chiến dịch di tản
Các nước lớn Hoa Kỳ, Liên Xô, Trung Quốc đều ủng hộ bên này hoặc bên kia trong Chiến tranh Việt Nam một cách riêng rẽ. Nhưng trong Chiến cục năm 1972 tại Việt Nam,
phải|Các nhân vật nổi bật của Đệ Tứ cộng sản Việt Nam. phải|nhỏ|Hiệu kỳ Trăng Câu Đệ Tứ Đảng. **Trăng Câu Đệ Tứ Đảng** (tiếng Pháp: _La Partie Trotskyste du Vietnam_, **PTV**) là một phong
**Bộ chỉ huy Viện trợ Quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam** (tiếng Anh: _The US Military Assistance Command, Vietnam_), viết tắt là **MACV**, đọc theo âm tiếng Việt là **Mắc-vi**) là cơ quan chỉ
Dưới đây là danh sách các vụ thảm sát xảy ra ở Việt Nam. ## Trước thời kỳ Pháp thuộc ## Thời Pháp thuộc ## Chiến tranh Đông Dương (1945–54) ## Chiến tranh Việt Nam
phải|nhỏ|300x300px|[[Hiệp định Paris 1973 được chính thức ký kết vào ngày 27 tháng 1 năm 1973, việc này đã gây ra tranh cãi chính trị trong nội bộ nước Mỹ.]] **Huyền thoại đâm sau lưng
**Di dân Việt Nam sau năm 1975** là một sự kiện trong lịch sử Việt Nam hiện đại, là hệ quả của cuộc Chiến tranh Việt Nam. Những người di dân này rời Việt Nam
**Ngày Quân lực Việt Nam Cộng hòa** được tổ chức hàng năm, lần đầu tiên vào ngày 19 tháng 6 năm 1965. Đó là ngày mà tập thể chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa chính
**Tân nhạc**, **nhạc tân thời**, **nhạc cải cách** hay **nhạc nhẹ** là tên gọi thông dụng của dòng nhạc xuất hiện tại Việt Nam vào khoảng năm 1928. Tân nhạc là một phần của **âm
**Điện ảnh Việt Nam** hay **phim điện ảnh Việt Nam** (tức **phim lẻ Việt Nam**) là tên gọi ngành công nghiệp sản xuất phim của Việt Nam từ 1923 đến nay. Điện ảnh Việt Nam
Bài viết dưới đây trình bày lịch sử của các loại xe tăng được sử dụng bởi các lực lượng khác nhau ở Việt Nam. ## Những vết xích tăng đầu tiên Vào năm 1918,
thumb|Biểu ngữ tuyên truyền nhân quyền tại Việt Nam **Nhân quyền tại Việt Nam** là tổng thể các mối quan hệ xã hội liên quan đến việc thực thi quyền con người tại Việt Nam
**Không quân nhân dân Việt Nam** (**KQNDVN**), được gọi đơn giản là **Không quân Việt Nam** (**KQVN**) hay **Không quân Nhân dân**, là một bộ phận của Quân chủng Phòng không – Không quân, trực
nhỏ|Các binh sĩ của [[Quân đội nhân dân Việt Nam đang duyệt binh trong bộ quân phục mới.]] **Hiện đại hóa** trong Quân đội nhân dân Việt Nam là một trong những mục tiêu theo