✨Mitsubishi A6M Zero

Mitsubishi A6M Zero

Mitsubishi A6M Zero (A để chỉ máy bay tiêm kích hoạt động trên tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, kiểu thứ 6, M viết tắt cho Mitsubishi) là máy bay tiêm kích hạng nhẹ hoạt động trên tàu sân bay được Không lực Hải quân Đế quốc Nhật Bản sử dụng từ năm 1940 đến năm 1945. Vào giai đầu Thế Chiến II, Mitsubishi A6M được đánh giá là máy bay tiêm kích hoạt động trên tàu sân bay tốt nhất thế giới, kết hợp tính cơ động xuất sắc và tầm bay xa; trong các hoạt động ban đầu, nó được ngưỡng mộ gần như là một huyền thoại. Tuy nhiên, đến năm 1942, sự phối hợp các chiến thuật không chiến cùng các máy bay mới tốt hơn đã giúp cho các phi công Mỹ có thêm khả năng đọ sức với Zero một cách cân bằng hơn. Không lực Hải quân Đế quốc Nhật Bản cũng sử dụng chúng như kiểu máy bay tiêm kích đặt căn cứ trên đất liền. Đến năm 1943, những hạn chế về thiết kế vốn có (giáp phòng thủ quá yếu nên rất dễ bị rơi khi trúng đạn và không có thùng nhiên liệu tự hàn kín) cộng với sự thiếu sót một loại động cơ mạnh hơn, khiến cho Zero dần dần kém hiệu quả hơn những máy bay tiêm kích mới hơn (như F6F Hellcat hay F4U Corsair) của Mỹ. Những mẫu tiêm kích này có hỏa lực, vỏ giáp, tốc độ, và đạt đến khả năng cơ động đều vượt trội hơn Zero. Cho dù Mitsubishi A6M đã lạc hậu vào năm 1944, nhưng chúng vẫn không được thay thế hoàn toàn bởi những kiểu máy bay mới. Đến những năm cuối của cuộc chiến tranh tại Thái Bình Dương, Zero còn được sử dụng trong những nhiệm vụ tấn công cảm tử Kamikaze.

Thiết kế và phát triển

nhỏ|phải|Xác chiếc Mitsubishi A6M3 Zero bị bỏ lại sân bay Munda, Trung Solomon, 1943 nhỏ|phải|A6M2 Zero của tàu sân bay [[Zuikaku (tàu sân bay Nhật)|Zuikaku chuẩn bị thực hiện phi vụ từ Rabaul]] phải|nhỏ|A6M3 Kiểu 22 tại quần đảo Solomon, 1943

Khi kiểu máy bay tiêm kích Mitsubishi A5M vừa mới được đưa vào sử dụng vào đầu năm 1937, Hải quân Đế quốc Nhật Bản đã bắt đầu tìm kiếm một kiểu thay thế nó sau này. Vào tháng 5, họ phát hành bảng tiêu chuẩn 12-Shi cho một kiểu máy bay tiêm kích mới hoạt động trên tàu sân bay và gửi đến các hãng Nakajima và Mitsubishi. Cả hai công ty bắt đầu những công việc thiết kế sơ thảo trong khi chờ đợi những yêu cầu chi tiết hơn sẽ được gửi đến sau vài tháng.

Căn cứ vào những kinh nghiệm tác chiến của chiếc A5M tại Trung Hoa, Hải quân gửi các yêu cầu được cập nhật vào tháng 10. Chúng bao gồm một vận tốc 500 km/h (310 mph) ở độ cao 4000 m (13120 ft) và tốc độ lên cao 3000 m (9840 ft) trong vòng 3,5 phút. Nó phải bay được 2 giờ ở tốc độ tối đa hoặc 6 đến 8 giờ ở tốc độ bay đường trường với các thùng nhiên liệu phụ vứt được. Vũ khí bao gồm 2 pháo 20 mm và 2 súng máy 7,7 mm (0,303 inch) cùng 2 quả bom 30 kg (70 lb) hoặc 60 kg (130 lb). Mọi máy bay phải được trang bị hệ thống liên lạc radio đầy đủ, và kèm theo một bộ định hướng vô tuyến để dẫn đường tầm xa. Độ cơ động phải ít nhất tương đương với A5M, trong khi sải cánh phải ngắn hơn 12 m (39 ft) để phù hợp cho các tàu sân bay. Tất cả những điền kiện trên đây phải đạt được bằng các kiểu động cơ sẵn có, cũng là một giới hạn khác (động cơ trang bị cho Zero hiếm khi đạt trên 1000 mã lực cho mọi phiên bản).

Nhóm thiết kế Nakajima nghĩ rằng những yêu cầu trên không thể đạt được và rút lui khỏi cuộc cạnh tranh vào tháng 1 năm 1938. Jiro Horikoshi, thiết kế trưởng của Mitsubishi, cảm thấy có thể thực hiện được nếu chiếc máy bay được làm càng nhẹ càng tốt. Mọi biện pháp làm nhẹ cân được áp dụng. Hầu hết thân máy bay được làm bằng hợp kim nhôm T-7178, một cải tiến tuyệt mật được phát triển bởi người Nhật Bản cho riêng mục đích này. Nó nhẹ và chắc chắn hơn nhôm thường vào thời đó, nhưng giòn hơn. Ngoài ra, không có vỏ giáp để bảo vệ phi công, động cơ hay những bộ phận quan trọng; và thùng nhiên liệu tự hàn kín, một phát minh bắt đầu thông dụng vào lúc đó cũng bị bỏ qua. Điều này đã khiến cho Zero nhẹ hơn và nhanh nhẹn hơn hầu hết máy bay khác vào lúc bắt đầu cuộc chiến, nhưng cũng làm cho nó dễ bắt lửa và phát nổ chỉ sau khi trúng vài loạt đạn súng máy của đối thủ.

Với kiểu cánh đơn gắn thấp dạng bao lơn, càng đáp rộng xếp được và buồng lái kín, thiết kế không chỉ rất hiện đại hơn mọi kiểu Hải quân đã dùng, mà còn là một trong những kiểu hiện đại nhất trên thế giới. Zero có bộ cánh nâng được nhiều ở tốc độ chậm và có áp lực cánh rất thấp, cho phép nó có một tốc độ tròng trành rất thấp dưới 111 km/h (60 mph). Đây là nguyên nhân của khả năng lượn vòng của kiểu máy bay này, cho phép nó lượn gắt hơn mọi máy bay tiêm kích Đồng Minh thời đó. Tốc độ lộn vòng được tăng cường bởi tấm lái thăng bằng đặt trên cánh điều khiển liệng sẽ được làm lệch ngược chiều lại cánh nhỏ giúp giảm nhẹ lực điều khiển. Điểm bất lợi là nó sẽ làm giảm hiệu quả lộn vòng ở tốc độ tối đa. Ở tốc độ 260 km/h (160 mph), A6M2 có tốc độ lộn vòng 56° mỗi giây. Vì độ linh hoạt của cánh, hiệu quả lộn vòng còn gần bằng 0 ở tốc độ 483 km/h (300 mph).

Tên gọi

A6M được biết đến nhiều nhất dưới tên gọi Zero do cách đặt tên của Hải quân Nhật: Máy bay chiến đấu trên tàu sân bay Đời 0 (tiếng Nhật: 零式艦上戦闘機, Rei shiki Kanjo sentoki), lấy từ hai số cuối của Năm đế chế (Nhật) 2600 (1940), khi nó được đưa vào hoạt động. Tại Nhật nó được gọi không chính thức là Rei-sen hay Zero-sen. Phi công Nhật thường gọi máy bay của họ là Zero-sen.

Tên mã chính thức do Đồng Minh đặt là Zeke Tên này nằm trong loạt đầu tiên của kiểu tên mã "hillbilly" do Đại tá Frank T. McCoy đặt ra, nhằm muốn có những cái tên nhanh chóng, dễ phân biệt và dễ nhớ. Khi hệ thống tên mã Đồng Minh được đưa ra áp dụng vào năm 1942, ông đã chọn một cách hợp lý cái tên "Zeke" dành cho "Zero". Sau này, hai phiên bản của chiếc máy bay tiêm kích không được nhận diện một cách rõ ràng, và được đặt những tên mã riêng: kiểu A6M2-N (phiên bản thủy phi cơ của Zero) được gọi là Rufe và phiên bản A6M3-32 ban đầu được gọi là Hap. Sau khi bị tướng "Hap" Arnold, tư lệnh Không lực Lục quân Hoa Kỳ phản đối, cái tên được chuyển thành Hamp.

Lịch sử hoạt động

nhỏ|phải|Mitsubishi A6M2 "Zero" Kiểu 21 cất cánh từ tàu sân bay [[Akagi (tàu sân bay Nhật)|Akagi để tấn công Trân Châu Cảng]] nhỏ|phải|Buồng lái chiếc A6M2 số hiệu đuôi "AI-154" do phi công Takeshi Hirano lái bị rơi trong trận không kích Trân Châu Cảng. nhỏ|phải|Một chiếc Zero được các sĩ quan Mỹ khảo sát trên đảo Akutan ngày 11 tháng 7 năm 1942.

Chiếc Zero đầu tiên (trước kiểu A6M2) được đưa ra hoạt động vào tháng 7 năm 1940. Vào ngày 13 tháng 9 năm 1940, Zero ghi được những chiến công không chiến đầu tiên khi 13 chiếc A6M2 do Trung úy Saburo Shindo dẫn đầu đã tấn công tốp máy bay của Trung Hoa Dân Quốc gồm 27 chiếc Polikarpov I-15 và I-16 do Liên Xô chế tạo, bắn rơi toàn bộ số máy bay này mà không bị thiệt hại. Trước khi được tái bố trí, trong vòng một năm, những chiếc Zero đã bắn rơi được 99 máy bay Trung Quốc. (Những nguồn khác cho là 266 chiếc. Vì thế, Zero bắt đầu có được sự ngưỡng mộ lớn lao. Dù sao, Zero không thể đạt được ưu thế trên không tuyệt đối do sự phát triển những chiến thuật phù hợp và sự có mặt của những kiểu máy bay mới. Trong suốt Thế chiến II, Zero diệt được ít nhất 1550 máy bay Mỹ.

Phi công "Ách" Nhật Bản Saburo Sakai mô tả khả năng chịu đựng tổn hại của máy bay Đồng Minh đời đầu là yếu tố ngăn chặn Zero trở thành kẻ thống lĩnh tuyệt đối như sau:

Được thiết kế để tấn công, Zero dành ưu tiên cho tầm xa, độ cơ động và hỏa lực đánh đổi lấy sự bảo vệ — hầu hết đều không có thùng nhiên liệu tự hàn kín hay vỏ giáp — nên nhiều chiếc Zero kèm theo phi công bị mất dễ dàng trong chiến đấu. Trong giai đoạn đầu của chiến cuộc Thái Bình Dương, người Nhật huấn luyện phi công của họ kỹ lưỡng hơn Đồng Minh. Do đó, việc tổn thất phi công nặng nề không lường trước tại Trận chiến Biển San Hô và Trận Midway làm cho họ rất khó được bù đắp.

Với sự nhanh nhẹn cực kỳ của Zero, phi công Đồng Minh nhận ra rằng chiến thuật không chiến thích hợp chống lại Zero là giữ khoảng cách bên ngoài tầm bắn và tấn công lúc lên cao hay bổ nhào. Bằng cách dùng tốc độ và cần tránh sai lầm chết người muốn lượn vòng theo chiếc Zero; với những khẩu pháo hay súng máy hạng nặng 12,7mm (.50 cal) có thể mang theo sau này, chỉ cần một loạt đạn duy nhất cũng thường đủ hạ chiếc Zero. Những chiến thuật boom-and-zoom (bắn rồi chạy) này được áp dụng thành công tại Mặt trận Trung Hoa - Miến Điện - Ấn Độ bởi Nhóm phi công Tình nguyện Hoa Kỳ (AVG: American Volunteer Group) của Đội Phi Hổ (Flying Tigers) chống lại những máy bay Nakajima Ki-27 và Ki-43 của Lục quân Nhật có độ cơ động tương đương. Phi công AVG được huấn luyện để khai thác ưu thế của những chiếc Curtiss P-40; rất chắc chắn, vũ khí mạnh, nhanh hơn khi bổ nhào và khi bay ngang ở cao độ thấp, và tốc độ lộn vòng tốt.

Một cách cơ động quan trọng khác được đặt tên là "Thach Weave", đặt theo tên người đã phát minh ra nó, lúc đó là Thiếu tá John S. "Jimmy" Thach. Nó đòi hỏi 2 máy bay sẽ bay song song cách nhau khoảng 60 m (200 feet). Khi một chiếc Zero bám theo đuôi một trong hai chiếc của đội bay, hai chiếc sẽ lượn vòng hướng vào nhau. Nếu chiếc Zero tiếp tục theo đuổi mục tiêu ban đầu, nó sẽ lọt vào tầm ngắm của chiếc kia. Chiến thuật này được dùng với kết quả mỹ mãn tại Trận chiến Biển San Hô và trận Midway, và sau đó tại quần đảo Solomon, giúp bù đắp cho sự yếu kém của những chiếc máy bay Mỹ cho đến khi những kiểu máy bay mới được đưa vào sử dụng.

Quân đội Mỹ tìm thấy nhiều đặc tính độc đáo của A6M khi họ thu được một chiếc trên đảo Akutan thuộc quần đảo Aleut, Alaska. Phi công Tadayoshi Koga bị lạc quá xa khỏi căn cứ và hy vọng đáp khẩn cấp xuống lãnh thổ Hoa Kỳ, nhưng máy bay bị lật trên đất mềm và ông ta bị tử thương vì gãy đốt sống cổ. Chiếc máy bay hầu như nguyên vẹn được chở đến Căn cứ Không lực North Island, San Diego. Các thử nghiệm được tiến hành sau đó trên chiếc máy bay được sửa chữa không những chỉ ra những ưu điểm, mà đồng thời cũng cho thấy những thiếu sót trong thiết kế và tính năng bay.

Khi những chiếc Grumman F6F Hellcat, Vought F4U Corsair và Lockheed P-38 xuất hiện tại mặt trận Thái Bình Dương; A6M với động cơ yếu kém đã mất tính cạnh tranh. Trong không chiến với một chiếc F6F hay F4U, điểm mạnh duy nhất có thể nói về chiếc Zero trong giai đoạn này là, trong tay một phi công có kinh nghiệm, nó có thể cơ động tương đương với hầu hết các đối thủ.

;A6M5, Đời 0 Kiểu 52 (零式艦上戦闘機五二型) nhỏ|phải|Mitsubishi A6M5 Kiểu 52 bị quân Nhật bỏ lại sau chiến tranh tại Căn cứ Không lực Hải quân [[Atsugi.]] Được xem là phiên bản có hiệu quả nhất, A6M5 Kiểu 52 được phát triển nhằm đối đầu với những chiếc Hellcat và Corsair vượt trội nhờ sức mạnh động cơ và vũ khí trang bị.

Các nước sử dụng

thumb|A6M, Không lực Lục quân Hoa Kỳ ;Các nước sử dụng chính

  • Không lực Hải quân Đế quốc Nhật Bản

  • Không quân Hoàng gia Thái Lan ;Các nước sử dụng máy bay chiếm được hoặc sau chiến tranh

  • Không quân Trung Hoa Dân Quốc

  • Không quân Pháp

  • Không quân Indonesia

  • Không lực Lục quân Hoa Kỳ

Những chiếc còn sống sót

nhỏ|Chiếc A6M3 Kiểu 22, số hiệu NX712Z tại Bảo tàng [[sân bay Camarillo, từng được sử dụng để quay bộ phim Pearl Harbor.]] nhỏ|phải|Chiếc A6M2 Kiểu 21 trưng bày tại [[Bảo tàng Không quân Thái Bình Dương, Trân Châu Cảng]] Nhiều chiếc Zero còn sống sót sau chiến tranh hiện đang được trưng bày tại Nhật Bản (Aichi, Bảo tàng Khoa học Tokyo, Hiroshima, Hamamatsu, MCAS Iwakuni và Shizuoka), Trung Quốc (Bắc Kinh), Hoa Kỳ (Bảo tàng Quốc gia Hàng không và Không gian, Bảo tàng Quốc gia Không quân Hoa Kỳ, Bảo tàng Quốc gia Không lực Hải quân, Bảo tàng Không quân Thái Bình Dương và Bảo tàng Hàng không và Không gian San Diego) và Anh Quốc (Duxford) cũng như tại Bảo tàng Chiến tranh Auckland ở New Zealand. Một chiếc A6M2-21 được phục hồi với ký hiệu đuôi V-173 do phi công Saburo Sakai điều khiển đã bị rơi tại Lae và hiện đang trưng bày tại Bảo tàng Chiến tranh Australian tại Canberra.

Một số chiếc Zero hiện còn trong tình trạng bay được; hầu hết đã được thay thế động cơ bằng các kiểu tương đương do Mỹ chế tạo; ngoại trừ một chiếc duy nhất thuộc Bảo tàng Planes of Fame có số hiệu đuôi "61-120" (xem liên kết ngoài bên dưới) còn giữ lại kiểu động cơ Sakae nguyên thủy. Cho dù không thực sự là một phiên bản còn sống sót, chiếc Zero "Blayd" là kết quả của công việc phục chế dựa trên các linh kiện nguyên thủy của Zero. Để được xem là một công trình "phục hồi", các nhà chế tạo đã sử dụng một phần nhỏ linh kiện bộ càng đáp nguyên thủy được khôi phục từ một chiếc Zero ở Nam Thái Bình Dương. Chiếc máy bay này giờ đây được trưng bày tại Bảo tàng Hàng không Fargo ở Fargo, Bắc Dakota.

Sự hiếm hoi của những phiên bản Zero còn bay được buộc phải sử dụng kiểu máy bay một chỗ ngồi T-6 Texan, được cải biến bề ngoài và được sơn ký hiệu Nhật Bản, nhằm mô phỏng Zero khi quay các bộ phim Tora! Tora! Tora!, The Final Countdown và nhiều phim nhựa và phim truyền hình khác có xuất hiện kiểu máy bay này.

Đặc điểm kỹ thuật (A6M2 Đời 0 Kiểu 21)

Tham khảo: The Great Book of Fighters

'Đặc tính chung

  • Đội bay: 01 người
  • Chiều dài: 9,06 m (29 ft 9 in)
  • Sải cánh: 12,0 m (39 ft 4 in)
  • Chiều cao: 3,05 m (10 ft 0 in)
  • Diện tích bề mặt cánh: 22,44 m² (241,5 ft²)
  • Tỉ lệ dài/rộng cánh: 6,4
  • Trọng lượng không tải: 1.680 kg (3.704 lb)
  • Trọng lượng có tải: 2.410 kg (5.313 lb)
  • Động cơ: 1 x động cơ Nakajima Sakae 12 bố trí hình tròn, công suất 840 mã lực (709 kW)

Đặc tính bay

  • Tốc độ lớn nhất: 660  km/h (356 knot, 410 mph)
  • Tốc độ nhanh nhất tiêu biểu: 510 km/h (287 knot, 331 mph) ở độ cao 4400 m (14930 ft)
  • Tầm bay tối đa: 3105 km (1.929 miles)
  • Trần bay: 10000 m (33000 ft)
  • Tốc độ lên cao: 15,7 m/s (3.100 ft/min)
  • Áp lực cánh: 107,4 kg/m² (22,0 lb/ft²)
  • Tỉ lệ công suất/khối lượng: 0,294 W/kg (0,18 hp/lb)

Vũ khí

nhỏ|Độ chệch đường đạn giữa hai kiểu đạn 7,7 mm và 20mm

  • Súng: 2 × súng máy 7,7 mm "Kiểu 97" ở nắp động cơ, 680 viên đạn mỗi khẩu. 2 × pháo 20 mm "Kiểu 99" trên cánh, 60 viên đạn mỗi khẩu.
  • Bom: 2 × bom 60 kg (132 lb) hoặc 2 × bom 250 kg (551 lb) cố định để tấn công kiểu kamikaze (Thần Phong).
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Mitsubishi **A6M Zero** (**A** để chỉ máy bay tiêm kích hoạt động trên tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, kiểu thứ **6**, **M** viết tắt cho Mitsubishi) là máy bay tiêm
phải|nhỏ|300x300px|Nhân lực Hải quân Hoa Kỳ khảo sát Akutan Zero trên [[Đảo Akutan vào ngày 11 tháng 7 năm 1942]] **Akutan Zero** (hay còn được gọi là **Chiếc Zero của Koga** hoặc **Aleutian Zero**) là
**Mitsubishi A5M** là máy bay cánh đơn đầu tiên hoạt động trên hạm đội, và là tiền thân trực tiếp của kiểu Mitsubishi A6M-Zero nổi tiếng. Tên mã của Đồng Minh là **Claude**; trong khi
**Mitsubishi A7M** **Reppū** (tiếng Nhật: 烈風, "Liệt Phong") được thiết kế như là máy bay tiếp nối chiếc Mitsubishi A6M-Zero nổi tiếng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, và việc phát triển được bắt
Chiếc Mitsubishi J2M "Raiden" (, nghĩa là "sấm chớp") là kiểu máy bay tiêm kích cánh quạt 1 động cơ đặt căn cứ trên đất liền do Hải quân Đế quốc Nhật Bản sử dụng
F-2 là máy bay tiêm kích do Nhật Bản-Hoa Kỳ hợp tác nghiên cứu sản xuất. Được sản xuất bởi Mitsubishi Heavy Industries và Lockheed Martin cho lực lượng phòng vệ Nhật Bản với tỷ
**Grumman F6F Hellcat** (Mèo Hỏa Ngục) là một kiểu máy bay tiêm kích do hãng Grumman, Hoa Kỳ thiết kế và chế tạo. Hellcat cùng với chiếc Vought F4U Corsair trở nên những máy bay
**Không lực Hải quân Đế quốc Nhật Bản** (kanji cũ: 大日本帝國海軍航空隊, romaji: _Dai-Nippon Teikoku Kaigun Koukuu-tai_, phiên âm Hán-Việt: _Đại Nhật Bản Đế quốc Hải quân Hàng không Đội_) là binh chủng không quân của
**Chiến dịch Vengeance** (tiếng Việt: **Chiến dịch Báo thù**) là một chiến dịch quân sự của Quân đội Hoa Kỳ ở Mặt trận Tây Nam Thái Bình Dương trong Chiến tranh Thế giới thứ hai.
Chiếc **Chance Vought F4U Corsair** là máy bay tiêm kích của Hoa Kỳ hoạt động rộng rãi trong giai đoạn nửa sau của Chiến tranh thế giới thứ hai và Chiến tranh Triều Tiên cũng
thế=Một phi công của Không quân Hoa Kỳ điều khiển một máy bay F-35A Lightning II được giao cho Phi đội Tiêm kích 58, Phi đoàn Tiêm kích 33 vào vị trí để tiếp nhiên
Máy bay tiêm kích đánh chặn/tiêm kích-ném bom **Nakajima A6M2-N ** là một kiểu thủy phi cơ một chỗ ngồi dựa trên thiết kế chiếc Mitsubishi A6M Zero Kiểu 11. Tên chính thức của Hải
**_Ryūjō_** (, _rồng phi lên_) là một tàu sân bay hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản từng hoạt động trong Thế Chiến II và bị máy bay Mỹ đánh đắm trong trận
là một phim hoạt hình dã sử với kịch bản và đạo diễn thực hiện bởi Miyazaki Hayao, phát hành vào mùa hè năm 2013. Bộ phim dựa trên bộ truyện tranh cùng tên, vốn
**Trận Singapore** hay **chiến dịch Singapore** là trận đánh diễn ra trong Chiến tranh thế giới thứ hai giữa Đế quốc Nhật Bản và khối Liên hiệp Anh từ ngày 8 tháng 2 đến ngày
**Hệ thống đánh mã máy bay quân sự của Nhật Bản** trong thời kỳ Đế quốc (trước 1945) bao gồm hệ thống cho mỗi đơn vị vũ trang. Điều này dẫn đến việc sử dụng
**USS _Oberrender_ (DE-344)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _John C. Butler_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy
là súng máy hạng nhẹ cố định trên máy bay được sử dụng bởi Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Nó là súng máy hạng nhẹ chuẩn của
**_Hiryū_** (**Nhật**: 飛龍, _Phi Long_) là một tàu sân bay thuộc lớp Sōryū được cải biến của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó là một trong những tàu sân bay Nhật đã mở đầu
**USS _Natoma Bay_ (CVE–62)** là một tàu sân bay hộ tống lớp _Casablanca_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai; tên nó được đặt theo vịnh Natoma tại
nhỏ|Động cơ [[Nakajima Homare do hãng Nakajima sản xuất]] là một hãng sản xuất máy bay và động cơ hàng không nổi tiếng của Nhật Bản trong suốt Chiến tranh thế giới thứ hai. ## Lịch
**Trận Iwo Jima** (, , 19 tháng 2 — 26 tháng 3 năm 1945) là trận đánh lớn thuộc mặt trận Thái Bình Dương trong Chiến tranh thế giới thứ hai giữa Hoa Kỳ và
__NOTOC__ Danh sách máy bay :A B C-D E-H I-M N-S T-Z ## I ### IAI * IAI Arava * IAI Astra * IAI C-38 Courier * IAI F-21 Kfir * IAI Galaxy * IAI
**Hải quân Đế quốc Nhật Bản** (kanji cổ: 大日本帝國海軍, kanji mới: 大日本帝国海軍, romaji: _Dai-Nippon Teikoku Kaigun_, phiên âm Hán-Việt: **_Đại Nhật Bản Đế quốc Hải quân_**), tên chính thức **Hải quân Đế quốc Đại Nhật
**Hải chiến mũi Esperance** hay theo Nhật Bản gọi là **Savo-tō Oki Kaisen** (サボ島沖海戦, サボとうおきかいせん) diễn ra từ ngày 11 đến ngày 12 tháng 10 năm 1942, là một trong nhiều trận hải chiến giữa
**Call of Duty: World at War** là một trò chơi điện tử bắn súng góc nhìn thứ nhất (first-person-shooter) được phát triển bởi studio Treyarch và phát hành bởi Activision. Game được ra mắt cho
**USS _Benham_ (DD-796)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Mỹ
**Trận Midway** là một trận hải chiến quan trọng trong thế chiến thứ hai tại chiến trường Thái Bình Dương, diễn ra ngày từ ngày 4 tháng 6 – 7 tháng 6 năm 1942. Hai
**_Amagi_** (tiếng Nhật 天城: _Thiên Thành_) là một tàu sân bay hạm đội của Hải quân Đế quốc Nhật Bản phục vụ trong Thế Chiến II. Là chiếc tàu sân bay thứ hai trong lớp
**USS _Edsall_ (DD-219)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và đã tiếp tục phục vụ vào đầu Chiến tranh
**USS _Bagley_ (DD-386)** là một tàu khu trục, chiếc dẫn đầu của lớp _Bagley_, được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải
**USS (CVE-71)** là một tàu sân bay hộ tống lớp _Casablanca_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. _Kitkun Bay_ đã hoạt động cho đến hết Thế Chiến
**USS _Wickes_ (DD-578)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
**USS _McKee_ (DD-575)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Mỹ
**Lịch sử Hải quân Nhật Bản** bắt đầu với sự tương tác với các quốc gia trên lục địa châu Á thiên niên kỷ 1, đạt đỉnh cao hoạt động hiện đại vào thế kỷ
**USS _Bryant_ (DD-665)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS _Tulagi_ (CVE-72)** là một tàu sân bay hộ tống lớp _Casablanca_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai; tên nó được đặt theo đảo Tulagi thuộc quần
**Chiến dịch Hailstone** (tiếng Nhật:トラック島空襲, _Torakku-tō Kūshū,_ tức _Không kích tại Đảo Truk_) là một chiến dịch không kích/bắn phá lớn của Hải quân Hoa Kỳ nhằm vào lực lượng Hải quân Đế quốc Nhật
**Trận Ambon** (30 tháng 1-3 tháng 2 năm 1942) diễn ra tại đảo Ambon ở Đông Ấn Hà Lan (mà ngày nay là Indonesia), là một phần của các cuộc tiến công của Nhật Bản
**USS _Swearer_ (DE-186)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Cannon_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của
**USS _Yokes_ (APD-69)** là một tàu vận chuyển cao tốc lớp _Charles Lawrence_ của Hải quân Hoa Kỳ hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó nguyên được chế tạo như là chiếc
**_Shōhō_** (tiếng Nhật: 祥鳳, phiên âm Hán-Việt: _Triển Phụng_, nghĩa là "Phượng hoàng may mắn") là một tàu sân bay hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, tên của nó cũng được đặt
**_Hiyō_** (tiếng Nhật: 飛鷹, _Phi Ưng_) là một tàu sân bay thuộc lớp _Hiyō_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, được đưa ra hoạt động trong Thế Chiến II và bị đánh chìm trong
**_Zuihō_** (kanji: 瑞鳳, âm Hán-Việt: Thụy phụng, nghĩa là "_chim phượng tốt lành_") là một tàu sân bay hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó được đặt lườn vào năm 1934 như
**_Sōryū_** (tiếng Nhật: 蒼龍 _Thương Long_, có nghĩa là "rồng xanh") là một tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó từng tham gia trận tấn công Trân Châu Cảng, và bị
**_Hōshō_** (, _cú lượn của chim phượng_) là chiếc tàu sân bay đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1921, và là chiếc tàu sân bay đầu tiên của thế giới
(tiếng Anh: **Studio Ghibli, Inc.**) là một hãng phim hoạt hình Nhật Bản có trụ sở tại Koganei, Tokyo, Nhật Bản. Hãng được biết đến nhiều nhất qua việc sản xuất ra các bộ phim
là một Thiếu uý Phi công Hải quân của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Anh là một phi công Thần Phong, trận chiến cuối cùng của Thiếu