✨Trận Midway

Trận Midway

Trận Midway là một trận hải chiến quan trọng trong thế chiến thứ hai tại chiến trường Thái Bình Dương, diễn ra ngày từ ngày 4 tháng 6 – 7 tháng 6 năm 1942. Hai bên tham chiến là hạm đội Nhật Bản và hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ với giao tranh giữa 4 tàu sân bay của Hạm đội Hàng không thứ Nhất và 3 tàu sân bay của Lực lượng tác chiến số 16 và 17. Chỉ một tháng sau trận chiến biển Coral quyết định, hải quân Hoa Kỳ đã đánh bại một cuộc tấn công nữa của Hải quân Nhật Bản tại đảo san hô Midway, đánh dấu bước ngoặt trong chiến tranh Thái Bình Dương (1937–1945). Về những hệ quả ngắn hạn và dài hạn mà nó đem lại, nó là một trong những trận chiến hải quân quan trọng nhất ở vùng Thái Bình Dương, và có lẽ trong cả Chiến tranh thế giới thứ hai.

Cuộc tấn công của Nhật vào Midway, cũng gồm một cuộc tấn công thứ hai nữa vào các cứ điểm tại quần đảo Aleut ở Alaska bởi một hạm đội nhỏ hơn, là một kế hoạch của Hải quân Đế quốc Nhật Bản để nhử hạm đội tàu sân bay Mỹ vào một cái bẫy, tiêu diệt một cách có hiệu quả hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ, và đảm bảo ưu thế hải quân của Nhật trên Thái Bình Dương ít nhất cho tới cuối năm 1943. Như vậy, việc chiếm Midway sẽ đẩy xa thêm vành đai bảo vệ ra khỏi hòn đảo Nhật Bản. Thành công của chiến dịch này được coi là bước chuẩn bị cho những chiến dịch kế tiếp ở Fiji và Samoa, cũng thúc đẩy chiến dịch đánh chiếm Hawaii. Nếu người Nhật thành công trong mục tiêu Midway, vùng phía đông bắc vành đai Thái Bình Dương sẽ là vùng không có nguy cơ đối với Hải quân Nhật Bản. Nhờ vậy, chiến dịch Midway, cũng như cuộc tấn công Trân Châu Cảng đã mở ra chiến tranh, không phải là một phần của chiến dịch chinh phục nước Mỹ mà là để chiếm lấy sức mạnh chiến lược ở Thái Bình Dương, để người Nhật có thể rảnh tay thành lập vùng bá chủ của họ, được gọi là khối Thịnh vượng chung Đại Đông Á. Trong những hoàn cảnh tốt nhất, họ hy vọng rằng người Mỹ sẽ bắt buộc phải tìm giải pháp đàm phán để chấm dứt Chiến tranh Thái Bình Dương.

Tuy nhiên, như những gì đã xảy ra, trận chiến là một thất bại nặng nề cho người Nhật. Với việc bẻ gãy cuộc tiến công của quân Nhật, Hoa Kỳ đã đạt được thắng lợi quan trọng cho cả cuộc chiến. Tuy nhiên, khi xét tới sức mạnh không quân trên bộ của Mỹ ở quần đảo Hawaii, vốn đã được tăng cường kể từ sau cuộc tấn công vào ngày 7 tháng 12 năm ngoái, Yamoto đánh giá việc tấn công trực tiếp vào Trân Châu Cảng là quá rủi ro.

Thay vào đó, Yamamoto chọn Midway, một rạn san hô nhỏ ở cực tây bắc chuỗi đảo Hawaii, khoảng 1.300 dặm (1.100 hải lý; 2.100 km) từ Oahu. Vị trí địa lý này đồng nghĩa với việc Midway nằm ngoài tầm bắn hiệu quả của hầu hết các máy bay Mỹ đóng trên các hòn đảo chính ở Hawaii. Midway không quá quan trọng trong một kế hoạch lớn hơn phục vụ cho ý đồ của người Nhật, nhưng họ cảm thấy rằng người Mỹ sẽ coi Midway là một tiền đồn quan trọng của Trân Châu Cảng và do đó sẽ ra sức bảo vệ nơi này. Người Mỹ thực sự đánh giá Midway là một cứ điểm thiết yếu. Sau cuộc chiến, họ thành lập một căn cứ tàu ngầm ở Midway, cho phép các tàu ngầm từ Trân Châu Cảng có thể được tiếp nhiên liệu và tái cung cấp lương thực, mở rộng bán kính hoạt động của chúng thêm 1.200 dặm (1.900 km). Ngoài việc đóng vai trò như một căn cứ thủy phi cơ, các đường băng ở Midway còn là điểm tập kết tiền phương cho các cuộc tấn công vào đảo Wake của máy bay ném bom.

Kế hoạch

Đế quốc Nhật Bản

phải|Hình đảo san hô Midway, vài tháng trước trận đánh. Tương tự như các kế hoạch hải quân của Nhật Bản trong Thế chiến thứ 2, kế hoạch đánh chiếm Midway (chiến dịch MI) của Yamamoto cực kỳ phức tạp. Nó đòi hỏi sự phối hợp cẩn thận và kịp thời của nhiều nhóm chiến đấu trên khắp hàng trăm dặm biển khơi. Mưu đồ của Yamamoto dựa trên những thông tin tình báo lạc quan cho rằng USS Enterprise và USS Hornet, cấu thành Đội đặc nhiệm 16, là hai tàu sân bay duy nhất mà Hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ sẵn có. Trong trận biển San Hô một tháng trước, USS Lexington bị đánh chìm còn USS Yorktown thì chịu thiệt hại nặng đến mức người Nhật tin rằng nó cũng đã nằm dưới đáy biển. Tuy nhiên, sau khi được sửa chữa vội vàng tại Trân Châu Cảng, Yorktown vẫn xuất kích, đóng một vai trò quan trọng trong việc phát hiện và phá hủy các tàu sân bay của Nhật Bản. Cuối cùng, phần lớn kế hoạch của Yamamoto, khớp với cảm giác chung của giới lãnh đạo Nhật vào thời điểm đó, dựa trên những đánh giá sai lầm về tinh thần của người Mỹ, vốn được cho là đã suy yếu kể từ chuỗi chiến thắng cùa người Nhật trong những tháng trước.

Yamamoto cảm thấy sẽ cần phải có một chút trí trá để lôi kéo hạm đội Hoa Kỳ vào một tình thế nguy hiểm chết người. Vì vậy, Yamamoto quyết định phân tán các lực lượng, để tất cả (đặc biệt là các thiết giáp hạm của ông) nằm ngoài tầm mắt của người Mỹ trước trận đánh. Một điểm quan trọng là các thiết giáp hạm hỗ trợ và tàu tuần dương của Yamamoto sẽ phải theo sau lực lượng tàu sân bay của Phó đô đốc Chuichi Nagumo cách khoảng vài trăm dặm. Họ dự định có mặt và tiêu diệt bất cứ phần tử nào của hạm đội Hoa Kỳ đến phòng thủ ở Midway, một khi các tàu sân bay của Nagumo đã làm chúng suy yếu, đủ cho một trận đấu hỏa lực giữa ban ngày. Chiến thuật trên là một học thuyết được áp dụng trong hầu hết các lực lượng hải quân lớn đương thời.

Không may cho người Nhật, vì nhấn mạnh tới yếu tố bí mật và việc phân chia lực lượng của họ đồng nghĩa với việc không một lực lượng nào trong hạm đội của họ có thể giúp đỡ được nhau. Ví dụ, Nagumo không có được khả năng trinh sát từ các máy bay trinh sát do các tàu tuần dương và thiết giáp hạm, cũng như thiếu yểm trợ phòng không từ các tàu chiến thuộc các thê đội phía sau (gồm hai tàu sân bay hạng nhẹ, năm thiết giáp hạm, bốn tàu tuần dương hạng nặng và hai tàu tuần dương hạng nhẹ), và nó đã dẫn tới sự chôn vùi lực lượng tàu sân bay của Nagumo trong cuộc chiến.

Kế hoạch của Yamamoto cũng xác nhận thông tin tình báo cho rằng chiếc USS Enterprise và USS Hornet, thuộc Lực lượng Đặc nhiệm 16 là những chiếc tàu duy nhất đang hoạt động thuộc các lực lượng Thái Bình Dương của Mỹ ở thời điểm đó. USS Lexington đã bị đánh chìm và USS Yorktown bị hư hỏng nặng (và họ tin rằng nó đã chìm) tại trận biển Coral chỉ một tháng trước, và người Nhật tin rằng chiếc USS Saratoga đang được sửa chữa ở bờ biển phía tây nước Mỹ sau khi bị trúng ngư lôi làm hư hại.

Lực lượng tấn công tàu sân bay của Nhật gồm 248 máy bay trên bốn tàu sân bay (60 trên Akagi, 74 trên Kaga, 57 trên Hiryū và 57 trên Sōryū), cộng với 16 máy bay trinh sát của các thiết giáp hạm và tàu tuần dương. Máy bay tấn công chủ lực của tàu sân bay Nhật Bản là máy bay ném bom bổ nhào Aichi D3A1 "Val" và máy bay ném ngư lôi Nakajima B5N2 "Kate". Máy bay tiêm kích trên tàu sân bay là chiếc Mitsubishi A6M "Zero" có vận tốc nhanh và rất cơ động. Các phi công Nhật nhìn chung được huấn luyện tốt và giàu kinh nghiệm chiến đấu hơn phi công Mỹ lúc đó.

Tuy chiếm ưu thế về chất lượng máy bay và phi công, nhưng Lực lượng tàu sân bay của Nhật lại ít hơn về số lượng máy bay (264 so với 360), và hạm đội Nhật có một số thiếu sót về phòng thủ: pháo phòng không của tàu chiến Nhật Bản và các hệ thống điều khiển hỏa lực liên quan có một số thiếu sót về thiết kế và cấu hình, làm hạn chế hiệu quả của chúng. Đội tuần tra không quân chiến đấu (CAP) của Nhật bao gồm quá ít máy bay tiêm kích, và hệ thống cảnh báo sớm của hạm đội Nhật là khá kém (các tàu chiến Nhật khi đó đều chưa được gắn radar). Các bộ liên lạc vô tuyến chất lượng kém của các máy bay tiêm kích Nhật cũng cản trở khả năng chỉ huy và kiểm soát hiệu quả của CAP. Các tàu chiến hộ tống của các tàu sân bay đã được triển khai như các tàu trinh sát ở vị trí xa, không phải là các tàu hộ tống phòng không chạy ở gần tàu sân bay, và chúng cũng không có nhiều pháo phòng không nên không thể phòng thủ hiệu quả khi tàu sân bay Nhật bị máy bay đối phương tấn công.

Hoa Kỳ

Ba tháng trước Trận Trân Châu Cảng, bộ phận trinh sát vô tuyến của Cơ quan Tình báo Hải quân Hoa Kỳ phát hiện người Nhật sử dụng một bộ mật mã mới, gọi là JN-25B. Tuy nhiên do tính chất cực kỳ phức tạp của JN-25B nên họ chưa giải được.

Ngày 6 tháng 5 năm 1942, trong quá trình theo dõi các tín hiệu vô tuyến được truyền đi từ Hải quân Đế quốc Nhật Bản, nhóm Station Hypo thu được một bản tin, phát đi từ một máy bay trinh sát lúc ấy đang bay gần Đảo Midway. Trong bản tin đã được mã hóa bằng bộ mã JN-25B, Thiếu tá Joseph Rochefort nhận ra rằng chữ AF được lặp lại 2 lần và điều này đã khiến ông nghi ngờ đảo Midway chính là AF. Để chắc chắn, Joseph Rochefort giăng một cái bẫy bằng cách ra lệnh cho Jasper Holmes, sĩ quan hải quân trong nhóm Station Hypo gửi một công điện về Trân Châu Cảng theo đường dây cáp ngầm dưới biển, nội dung cho biết nguồn nước ngọt dùng trong sinh hoạt ở đảo Midway đã bị hỏng, và tình hình thiếu nước đang bắt đầu diễn ra trầm trọng. Chỉ 3 tiếng đồng hồ sau, một bản tin từ Bộ Hải quân Nhật Bản đã được mã hóa JN-25B gửi hạm đội Nhật ở Thái Bình Dương: "AF đang gặp phải vấn đề khó khăn trong việc cung cấp nước ngọt. Lực lượng tấn công cần chú ý và lập sẵn kế hoạch về chuyện này". Đây là cơ sở chính xác nhất để khẳng định AF chính là Đảo Midway.]] Lúc đó là 10:20, tất cả máy bay phóng ngư lôi Nhật đã trở lại trên sàn bay, cùng với các máy bay hộ tống đã tiếp nhiên liệu. Bốn tàu sân bay quay theo chiều gió chuẩn bị cho máy bay lên. Trong vòng 15 phút nữa toàn bộ máy bay sẽ ở trên không. Ngay đúng lúc đó, 31 máy bay ném bom bổ nhào SBD Dauntless xuất hiện từ hướng tây nam do McClusky chỉ huy. Đơn vị của McClusky với may mắn và sự quyết đoán đã tiếp cận được vị trí thuận lợi bên trên để tấn công Hạm đội Nhật. Các máy bay tấn công của Nhật chất đầy vũ khí và xăng trên boong các tàu sân bay trở thành mục tiêu của các phi đội Mỹ. Lúc ấy trên các hàng không mẫu hạm Nhật đang là lúc tiếp nhiên liệu. Đây chính là thời điểm các tàu sân bay dễ bị nguy hiểm nhất.

Vào lúc 10:22, các máy bay từ tàu sân bay Enterprise tấn công tàu sân bay KagaAkagi. 31 chiếc SBD Dauntless thuộc Liên đội VB-6 lao vào tấn công Kaga, đánh trúng nó một quả bom 1.000 pound (450 kg) và ít nhất ba quả bom 500 pound (230 kg). Chỉ có 1 chiếc SBD bị pháo phòng không Nhật bắn rơi.

Vào phút cuối cùng, một tốp ba máy bay ném bom do chỉ huy phi đội Richard Best dẫn đầu, suy luận rằng Kaga đã bị hư hại nặng, đã tách khỏi đội hình VB-6 và đồng loạt bổ nhào xuống Akagi. Lúc khoảng 10 giờ 26 phút, họ đánh trúng mục tiêu một quả bom 1.000 pound (450 kg) và suýt trúng hai quả khác.

Cả Akagi và Kaga bị trúng bom và bốc cháy dữ dội. Một lúc sau, phi đội 17 chiếc máy bay ném bom bổ nhào SBD Dauntless từ tàu Yorktown do Leslie chỉ huy đã nhận ra khói bốc lên từ chân trời nên quay về hướng tây bắc. Qua đám mây họ trông thấy tàu Hiryu và Soryu, họ liền đẩy tốc độ bổ nhào xuống tấn công chiếc Soryu. Họ đã đánh trúng 3 quả bom vào chiếc Soryu, khiến nó bốc cháy dữ dội.

Như vậy, trong khoảng 6 phút, hai phi đội bổ nhào đã làm cho ba tàu sân bay Nhật bốc cháy. Akagi chỉ trúng một quả bom, lúc bình thường thì nó sẽ không bị hư hại quá nặng, nhưng điều tai hại là sàn tàu của nó khi đó đang chứa đầy bom và ngư lôi. Tàu Soryu thì trúng ba quả bom, Kaga trúng bốn hay nhiều hơn, các thủy thủ nói rằng họ không thể đếm chính xác. Các tàu sân bay Nhật bị trúng bom đúng lúc chúng đang ở tình trạng dễ tổn thương nhất, đó là khi các tàu này đang chất đầy vũ khí trong khoang chứa máy bay và tiếp đầy xăng lên các máy bay nhằm chuẩn bị cho cuộc không kích nhắm vào các tàu sân bay Mỹ. Do đó khi trúng bom, các đám cháy đã bùng phát do xăng máy bay chảy tràn trên sàn chứa máy bay, kích nổ hàng loạt những quả bom và ngư lôi đang trải khắp sàn tàu, khiến việc chữa cháy và kiểm soát thiệt hại là không thể thực hiện được. Cả ba tàu bị loại khỏi vòng chiến và sau đó thì chìm hẳn.

Những cuộc phản công của Nhật Bản

trái|USS Yorktown bị đánh trúng bởi một ngư lôi phóng từ trên không Hiryu, lúc bấy giờ là hàng không mẫu hạm còn sống sót duy nhất của Nhật, không để phí thời gian trong việc phản công. Lúc 10:40 sáng, 6 chiến đấu cơ và 18 máy bay ném bom bổ nhào đã rời tàu Hiryu để tấn công tàu sân bay địch.

Đợt tấn công đầu tiên của các máy bay ném bom bổ nhào đã đánh trúng 3 quả bom, gây thiệt hại nặng cho Yorktown. 13 máy bay ném bom bổ nhào của Nhật Bản và 3 máy bay tiêm kích hộ tống đã bị mất trong cuộc tấn công này.

Tuy nhiên Yorktown được sửa chữa lại rất nhanh đến nỗi đợt tấn công thứ hai gồm 6 chiếc Zero và 10 máy bay ném ngư lôi B5N cứ lầm tưởng nó là một mẫu hạm còn nguyên vẹn. 10 máy bay phóng ngư lôi Nakajima B5N xông đến Yorktown, đánh trúng 2 ngư lôi. 5 máy bay ném ngư lôi và hai máy bay Zero đã bị Mỹ bắn hạ trong cuộc tấn công này.

Tin tức về hai cuộc tấn công, với các báo cáo nhầm lẫn rằng mỗi cuộc tấn công đã đánh chìm một tàu sân bay Mỹ, đã cải thiện đáng kể tinh thần của Nhật Bản. Một số máy bay còn sống sót đã hạ cánh trên tàu Hiryū. Mặc dù tổn thất nặng nề và Nhật chỉ còn 41 máy bay trên chiếc Hiryu, đô đốc Yamaguchi tin rằng họ còn đủ máy bay để thực hiện một cuộc tấn công chống lại tàu sân bay duy nhất còn lại của Mỹ. Tuy nhiên đô đốc Nagumo từ chối tung ra cuộc tấn công thứ 3 và ra lệnh toàn hạm đội rút lui về phía Tây. Thực ra, cả hai đợt tấn công đều đánh vào tàu Yorktown của Hoa Kỳ, và nó vẫn chưa chìm. Tuy nó không thể tham dự vào trận chiến được nữa nhưng Lực lượng Đặc nhiệm 16 thoát được mà không bị sứt mẻ. Yorktown sau cùng bị chìm vì trúng ngư lôi từ tàu ngầm Nhật trong lúc được cứu hộ vào ngày 7 tháng 6. Loạt ngư lôi đó cũng đánh chìm USS Hammann, là khu trục hạm được lệnh ở lại trợ giúp cho Yorktown.

Khi các máy bay thám thính của Hoa Kỳ tìm thấy Hiryu của Nhật sau đó thì đến chiều cùng ngày, 42 máy bay ném bom bổ nhào từ EnterpriseHornet của Hoa Kỳ tung ra một đòn tấn công cuối cùng vào xế tối chống mẫu hạm cuối cùng của Nhật. Mặc dù Hiryū được bảo vệ bởi một lớp phòng thủ mạnh gồm 13 máy bay chiến đấu Zero, cuộc tấn công của Mỹ đã thành công: bốn quả bom (có thể là năm) đánh trúng Hiryū, khiến nó bốc cháy dữ dội và mất khả năng chiến đấu. Lực lượng Mỹ bị bắn rơi 3 máy bay trong cuộc tấn công này.

Khi màn đêm rơi xuống, cả hai cùng kiểm tra thiệt hại và hoạch định hành động kế tiếp. Đô đốc Spruance lúc này làm tư lệnh chiến thuật các lực lượng Hoa Kỳ khi Đô đốc Fletcher bắt buộc phải bỏ lại chiếc Yorktown. Spruance biết rằng ông phải đạt được một chiến thắng oanh liệt nhất nhưng ông vẫn không biết chắc được thực lực của Nhật còn trong tay, và quyết định phòng vệ đảo và cả các mẫu hạm của ông. Cuối cùng, ông quyết định bỏ phía đông chiều tối hôm đó vì sợ đâm đầu vào một trận đánh ban đêm với lực lượng nổi hùng hậu hơn của Nhật có thể vẫn còn trong vùng. Trong những giờ đầu tiên của buổi sáng, ông quay về phía tây để sẵn sàng bảo vệ Midway nếu một cuộc tấn công khởi sự vào buổi sáng.

Về phần mình, Yamamoto lúc đầu quyết định tiếp tục nỗ lực và đưa các lực lượng nổi còn lại của mình tìm kiếm các mẫu hạm của Hoa Kỳ về hướng đông. Ngay lập tức, một lực lượng tuần dương hạm tấn công được đưa đến pháo kích vào đảo đêm đó. Dần dần khi đêm xuống nhưng không thấy bóng dáng người Mỹ đâu, lúc 02:30 Yamamoto ra lệnh cho các lượng của ông rút về hướng tây.

Trong khi rút lui với một hàng các phương tiện quá gần nhau vào ban đêm, lực lượng pháo hạm Nhật chịu đựng một cuộc thử lửa. Sự xuất hiện của tàu ngầm Hoa Kỳ Tambor bắt buộc các tuần dương hạm trong đội hình phải nhanh chóng tách ra. Tuần dương hạm Nhật Mogami đã không đổi hướng kịp thời và đâm vào chiếc Mikuma. Hai ngày sau, đầu tiên là máy bay từ Midway, rồi từ các mẫu hạm của Đô đốc Spruance tung ra đòn tấn công nhắm vào lực lượng đang rút lui của Nhật. Mikuma cuối cùng bị đánh đắm trong khi Mogami chống cự các máy bay ném bom thành công và chạy thoát về căn cứ Nhật.

Kết cục

phải|Một hình ảnh hiếm về một hàng không mẫu hạm Nhật đang chìm, trong ảnh này là Hiryu. Sau khi ghi được chiến thắng rõ ràng, lực lượng Hoa Kỳ rút lui.

Vào thời điểm trận chiến kết thúc, 3.057 người Nhật đã chết. Thương vong trên bốn tàu sân bay là: Akagi - 267; Kaga - 811; Hiryū - 392; Soryū - 711; tổng cộng 2.181. Tàu tuần dương hạng nặng Mikuma bị chìm - 700 chết và Mogami bị hư hỏng nặng - 92 chết. Ngoài ra, khu trục hạm Arashio bị ném bom - 35 chết, khu trục hạm Asashio bị máy bay bắn phá - 21 chết. Số người chết trên các tàu khác: tàu tuần dương Chikuma (3) và Tone (2), tàu khu trục Tanikaze (11), Arashi (1), Kazagumo (1) và tàu chở dầu Akebono Maru (10).

Việc Nhật Bản mất 4 hàng không mẫu hạm (Kaga, Akagi, Soryu, và Hiryu) cùng một số lớn các tổ lái được huấn luyện kỹ lưỡng đã chặn đứng sự bành trướng của họ trên vùng Thái Bình Dương. Hải quân Nhật đã mất 40% lực lượng tàu sân bay, họ chỉ còn 2 hàng không mẫu hạm cỡ lớn là ZuikakuShokaku có thể huy động cho các hoạt động tấn công, cùng 2 hàng không mẫu hạm lớn khác đang chạy thử máy. Các mẫu hạm còn lại là Ryūjō, JunyoHiyo đều là mẫu hạm nhẹ với đường băng nhỏ, chúng không có khả năng tác chiến mạnh như các hàng không mẫu hạm cỡ lớn. Thất bại nặng nề của người Nhật xảy ra sau nửa năm khai chiến với Hoa Kỳ. Khoảng thời gian này là gần như chính xác với dự đoán của Đô đốc Yamamoto Isoroku về quãng thời gian nước Nhật có ưu thế trước khi người Mỹ giành quyền chủ động.

Một nguyên nhân quan trọng khiến Nhật thất bại trong trận này là do thiếu sót về công nghệ: các tàu chiến Nhật khi đó chưa được trang bị ra-đa nên không phát hiện được máy bay Mỹ từ xa (phải tới cuối năm 1942 thì chiếc Shokaku mới là chiếc tàu sân bay đầu tiên của Nhật được trang bị radar). Radar thời đó đủ phát hiện máy bay địch từ xa 100 km, hạm đội sẽ có 15 phút để điều động máy bay đánh chặn, các thủy thủ cũng sẽ có thời gian để thực hiện các biện pháp hạn chế thiệt hại như khóa các ống dẫn nhiên liệu, cất kín đạn dược, đóng các vách ngăn chống cháy nổ... Tàu chiến Nhật quan sát bằng ống nhòm nên chỉ có thể phát hiện máy bay địch ở cự ly 10–20 km, lúc đó thì chỉ còn khoảng 2 phút để chuẩn bị chống đỡ. Do vậy, khi bị máy bay Mỹ tấn công liên tiếp từ nhiều phía, hạm đội Nhật lâm vào thế bị động, đến đợt tấn công thứ 4 thì chỉ huy Nhật đã không kịp điều động tiêm kích đánh chặn máy bay địch, khiến 3 tàu sân bay Nhật bị tấn công dễ dàng do không có máy bay tiêm kích bảo vệ. Vì chỉ có 2 phút nên các thủy thủ Nhật cũng không kịp thực hiện các biện pháp hạn chế thiệt hại, khiến các tàu sân bay Nhật bị tấn công đúng vào lúc khoang chứa máy bay đang chất đầy bom đạn và xăng dầu, kết quả là cả 3 tàu sân bay Nhật đều không thể chữa cháy được và đã chìm (để so sánh, chiếc USS Yorktown trúng 3 quả bom nhưng vẫn chưa chìm do thủy thủ Mỹ đã kịp triển khai biện pháp hạn chế thiệt hại, trong khi chiếc Akagi của Nhật lại chìm dù chỉ trúng 1 quả bom).

Trong trận đánh nào bên chiến thắng cũng cần có yếu tố may mắn. Ở Midway, hàng loạt các may mắn ngẫu nhiên đã giúp Mỹ chiến thắng: phi đội ném bom Mỹ tình cờ tìm thấy hạm đội Nhật đúng lúc họ sắp hết nhiên liệu và định quay về, đúng lúc các tiêm kích Nhật đang bận đối phó với 1 phi đội Mỹ khác, và cũng đúng lúc các tàu sân bay Nhật dễ bị tổn thương nhất (khi đó các máy bay Nhật đang nạp nhiên liệu và thay vũ khí để chuẩn bị xuất kích trong 15 phút nữa, nên chỉ cần trúng 1 quả bom cũng đủ gây ra kích nổ dây chuyền phá hủy cả con tàu). Chỉ trong 15 phút định mệnh đó, 3 sự may mắn đã liên tiếp đến với phi đội Mỹ. Nếu không có 3 may mắn liên tiếp này, phi đội Mỹ sẽ không thể đánh trúng (hoặc đánh trúng nhưng chỉ gây hư hại nặng chứ không thể làm chìm) tới 3 tàu sân bay cỡ lớn của Nhật.

Một sự xui xẻo khác cho Nhật diễn ra vào trước đó: việc máy bay trinh sát trên tàu tuần dương Tone bị trục trặc cũng đã làm chậm đòn tấn công của Nhật mất 30 phút, nếu không có sự vận xui này thì các tàu sân bay Nhật đã kịp tung ra đòn tấn công trước khi máy bay Mỹ làm gì được họ.

Trong chiến tranh có thời điểm dành cho sự thận trọng, có thời điểm dành cho sự táo bạo. Đô đốc Yamamoto lập kế hoạch chiến dịch Midway quá bất cẩn khi bố trí các lực lượng Nhật cách xa nhau, khiến họ không thể yểm trợ cho nhau. Trong khi đó, Đô đốc Nagumo lại thi triển nó quá thận trọng. Đô đốc Nagumo đã vi phạm kế hoạch của Yamamoto (dự trữ một nửa số máy bay để sẵn sàng đánh tàu chiến Mỹ bất cứ lúc nào) khi ra lệnh tháo ngư lôi khỏi máy bay để chuyển sang gắn bom, rồi khi phát hiện ra hạm đội Mỹ thì ông lại quyết định chờ các máy bay tấn công đảo Midway quay trở về rồi mới tấn công. Nếu Nagumo không ra lệnh tháo ngư lôi, hoặc nếu ông ta nghe theo đề nghị của đô đốc Yamaguchi (ra lệnh tung máy bay tấn công ngay khi nhận được thông báo về vị trí của hạm đội Mỹ) thì với hơn 110 máy bay được tung ra, quân Nhật sẽ gây cho hạm đội Mỹ những thiệt hại nặng hơn rất nhiều, thậm chí 110 máy bay đó hoàn toàn có đủ khả năng tiêu diệt cả 3 tàu sân bay Mỹ cùng nhiều tàu tuần dương, tàu khu trục hộ tống, và khi đó Nhật Bản mới là bên chiến thắng. Vậy là chỉ vì 1 mệnh lệnh do dự của Nagumo mà quân Nhật đang từ thế thắng lại chuyển sang thua.

Với việc Nhật Bản bị mất 4 tàu sân bay cỡ lớn, Hải quân Hoa Kỳ giờ đã cân bằng lực lượng với đối phương trong phương diện về hàng không mẫu hạm và đang vươn móng vuốt của nó về phía trước, Hoa Kỳ bắt đầu có thể vào thế công kích lần đầu tiên trong cuộc chiến. Sau đó không lâu Hoa Kỳ xâm chiếm Guadalcanal, mở đầu cuộc chiến quần thảo hao mòn tại Quần đảo Solomon và cuối cùng đã đánh tan hải quân và các đơn vị không quân thiện chiến của Nhật vào cuối năm 1944.

Ảnh hưởng của trận chiến

Đánh giá ảnh hưởng của cuộc chiến đòi hỏi phân tích thật cẩn trọng. Mặc dù trận Midway thường được gọi là một thắng lợi quyết định của Hoa Kỳ,. Sau trận chiến, Shōkaku và Zuikaku là những tàu sân bay lớn duy nhất của lực lượng tấn công Trân Châu Cảng ban đầu vẫn còn hoạt động. Trong số 18 tàu sân bay được chế tạo của Nhật Bản kể từ tháng 12/1941 cho tới đầu năm 1945, tàu Taihō được đưa vào hoạt động đầu năm 1944, và tàu Shinano hoạt động vào cuối năm 1944, sẽ là 2 tàu sân bay duy nhất có cùng khả năng và kích thước với Shōkaku và Zuikaku; Ryūjō và Zuihō là những tàu sân bay hạng nhẹ, trong khi Jun'yō và Hiyou, mặc dù được phân loại kỹ thuật là tàu sân bay cỡ lớn nhưng thực ra chúng nhỏ hơn và mang được ít máy bay hơn so với Shokaku. Trong cùng giai đoạn đó, Hải quân Hoa Kỳ đã đưa vào phục vụ 20 tàu sân bay cỡ lớn và khoảng 90 tàu sân bay hạng nhẹ/tàu sân bay hộ tống. Như vậy, trận Midway đã gây thiệt hại lâu dài cho lực lượng tấn công của Hải quân Nhật Bản, và rút ngắn khoảng thời gian mà lực lượng hải quân Nhật có thể chiến đấu trong những điều kiện có lợi. Việc mất năng lực chiến đấu ở giai đoạn sống còn này là một tai họa cho Đế quốc Nhật Bản. Họ đã có thể tiến hành những chiến dịch quy mô hơn và có lẽ là thành công hơn, để chống lại những chiến dịch phản công của Hoa Kỳ. trái|Tàu tuần dương Mikuma ngay trước khi chìm. Tầm quan trọng của trận Midway cũng có thể được đánh giá bằng cách nghiên cứu ngược lại thực tế, với giả định rằng các mẫu hạm của Hoa Kỳ bị tiêu diệt, dù đây chỉ là chuyện giả thiết. Bằng phân tích thì thấy rõ là sự bại trận của Hoa Kỳ tại Midway sẽ có thể kéo dài cuộc chiến tại Thái Bình Dương. Nó làm chậm sự khởi đầu của chiến cuộc hao mòn toàn diện mà cần thiết như cách duy nhất để đem cường quốc công nghiệp hóa hiện đại như Nhật Bản phải chịu quỳ dưới chân mình. Với chỉ 2 hàng không mẫu hạm còn khả năng chiến đấu (chiếc SaratogaWasp), nước Mỹ buộc phải ở thế phòng ngự chiến lược cho đến cuối năm 1942. Hải quân Nhật với đội tàu sân bay còn đủ 12 chiếc (gồm 8 chiếc cỡ lớn và 4 chiếc cỡ nhỏ), có thể tiếp tục tiến đến New Hebrides (sát Úc) và cắt đứt liên hệ của Hoa Kỳ với Úc, đồng thời hoàn tất việc xâm chiếm New Guinea. Hơn thế nữa, một thất bại nặng nề ở Midway có thể dẫn đến việc cách chức những tướng lĩnh quan trọng như Nimitz và Spruance. Các chiến dịch tấn công trên Thái Bình Dương sẽ bị trì hoãn đến cuối năm 1943, khi các mẫu hạm thế hệ EssexIndependence có mặt với số lượng thích đáng. Với giả định này, việc đánh bại Nhật sẽ phải kéo dài hơn, ít nhất là thêm 1 năm.

Cũng giả thiết như thế, nếu Hoa Kỳ thua trận, việc phân phối lại những nguồn nhân lực và vật chất cho hải và không quân Hoa Kỳ có thể bị trì hoãn trong các cuộc hành quân đổ bộ tại Bắc Phi, Địa Trung Hải, và có thể là Normandy. Một cuộc chiến lâu hơn ở Thái Bình Dương cũng nêu lên câu hỏi về vai trò của Liên Xô trong việc buộc Nhật đầu hàng: nếu quân Mỹ không thể đánh bại Nhật vào tháng 8/1945 thì chiến dịch Mãn Châu của Liên Xô sẽ dẫn tới kết cục là Hồng quân giải phóng toàn bộ vùng Đông Bắc Á khỏi tay Nhật, thậm chí Liên Xô còn có thể đánh tiếp xuống phía nam để kiểm soát toàn bộ miền đông Trung Quốc (khi đó đang bị Nhật chiếm đóng), và không rõ liệu quân Liên Xô có cùng quân Mỹ đổ bộ và kiểm soát một nửa nước Nhật (giống như thực tế đã xảy ra ở nước Đức và bán đảo Triều Tiên) hay không.

Khám phá

Vào ngày 19 tháng 5 năm 1998, Robert Ballard và một nhóm các nhà khoa học và cựu binh Midway (có cả sự tham gia của một số người Nhật) đã thành công trong việc định vị và chụp ảnh USS Yorktown. Chiếc tàu trông còn khá nguyên vẹn; còn nhiều thiết bị ban đầu, và thậm chí lớp sơn nguyên thủy của tàu vẫn còn nhìn rõ.

Các bộ phim

👁️ 4 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trận Midway** là một trận hải chiến quan trọng trong thế chiến thứ hai tại chiến trường Thái Bình Dương, diễn ra ngày từ ngày 4 tháng 6 – 7 tháng 6 năm 1942. Hai
Rạn san hô vòng Midway Điểm chiếu trực giao Midway trên địa cầu **Rạn san hô vòng Midway** (; còn gọi là **đảo Midway** hay **quần đảo Midway**; tiếng Hawaii: _Pihemanu Kauihelani_) là một rạn
**Trận chiến biển Coral** hay **Trận chiến biển San Hô** là trận hải chiến diễn ra trong Chiến tranh thế giới thứ hai từ ngày 4 tháng 5 đến ngày 8 tháng 5 năm 1942
**Trận chiến Đông Solomon** (hay còn gọi là **Trận chiến quần đảo Stewart** và theo tài liệu của Nhật là **Trận chiến biển Solomon lần thứ hai** - 第二次ソロモン海戦), diễn ra từ ngày 24 tháng
**Trận hải chiến ở quần đảo Santa Cruz** vào ngày 26 tháng 10 năm 1942, người Nhật Bản thường gọi là **Minami Taiheiyou Kaisen** (南太平洋海戦, みなみたいへいようかいせん) là trận hải chiến thứ tư giữa các tàu
**Danh sách các trận đánh Nhật Bản** là danh sách được sắp xếp ra theo từng năm, từng thời kỳ trong lịch sử Nhật Bản. ## Thời kỳ Yayoi * Hậu kỳ Thế kỷ 2:
**Danh sách các trận chiến** này được liệt kê mang **tính địa lý, theo từng quốc gia với lãnh thổ hiện tại**. ## Áo * Trận đồng Marchfeld (**Trận Dürnkrut và Jedenspeigen**) - 1278 *
**Trận Iwo Jima** (, , 19 tháng 2 — 26 tháng 3 năm 1945) là trận đánh lớn thuộc mặt trận Thái Bình Dương trong Chiến tranh thế giới thứ hai giữa Hoa Kỳ và
**Trận chiến đồi Edson**, hay còn gọi là **Trận chiến Đồi Máu**, là một trận đánh trên bộ trong Chiến dịch Guadalcanal thuộc Mặt trận Thái Bình Dương trong Chiến tranh thế giới thứ hai
**_Trận chiến Midway_** (tựa gốc tiếng Anh: **Midway**) là một bộ phim điện ảnh lịch sử Hoa Kỳ được sản xuất và phát hành năm 2019, do Roland Emmerich làm đạo diễn, Harald Kloser làm
**Midway** có thể chỉ: *Midway (hội chợ), một chỗ ở hội chợ hay gánh xiếc, nơi người ta tập trung vòng quay ngựa gỗ và các trò chơi giải trí. ## Rạn san hô vòng
**_Kaga_** **(tiếng Nhật: 加賀**, _Gia Hạ_) là một tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ hai; là chiếc tàu sân bay thứ ba của Hải quân
**_Akagi_** (tiếng Nhật: 赤城; Hán-Việt: _Xích Thành_) là một tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, được đặt tên theo núi Akagi thuộc
**USS _Astoria_ (CA-34)** (trước đó là **CL-34**) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _New Orleans_, là chiếc tàu chiến thứ hai được đặt tên theo thành phố
**_Mikuma_** (tiếng Nhật: 三隈) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ hai trong tổng số bốn chiếc thuộc lớp _Mogami_. Tên của nó được đặt
**_Hiryū_** (**Nhật**: 飛龍, _Phi Long_) là một tàu sân bay thuộc lớp Sōryū được cải biến của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó là một trong những tàu sân bay Nhật đã mở đầu
**Richard Halsey Best** (sinh ngày 24 tháng 3 năm 1910 – mất ngày 28 tháng 10 năm 2001) là một phi công máy bay ném bom kiểu bổ nhào và chỉ huy một phi đoàn
**_Sōryū_** (tiếng Nhật: 蒼龍 _Thương Long_, có nghĩa là "rồng xanh") là một tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó từng tham gia trận tấn công Trân Châu Cảng, và bị
là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm bốn chiếc. Tên của nó được đặt theo con sông Mogami
**USS _Pensacola_ (CL/CA-24)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó, và là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Hoa Kỳ
**_I-69_**, sau đổi tên thành **_I-169_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**USS _Hammann_ (DD-412)** là một tàu khu trục lớp _Sims_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai; nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân
nhỏ|228x228px|Yamamoto (hàng trước, ngồi, thứ 2 bên trái) cùng gia đình, bên trái là Teikichi Hori nhỏ|225x225px|Yamamoto lúc trẻ và Curtis D. Wilbur, Bộ trưởng Hải quân Hoa Kỳ **Yamamoto Isoroku** (kanji: 山本五十六, Hán Việt:
**Trận tấn công Trân Châu Cảng** (hay **Chiến dịch Hawaii** và **Chiến dịch AI** của Hawaii, và **Chiến dịch Z** theo cách gọi của Bộ Tổng tư lệnh Đế quốc Nhật Bản) là một cuộc
**_Kongō_** (tiếng Nhật: 金剛, Kim Cương) là chiếc tàu chiến-tuần dương đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc kiểu siêu-Dreadnought, là chiếc dẫn đầu của lớp Kongō bao gồm những chiếc _Hiei_,
**USS _Northampton_ (CL/CA-26)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ
**_Chikuma_** (tiếng Nhật: 筑摩) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ hai trong lớp _Tone_ vốn chỉ có hai chiếc. Tên của nó được đặt
**Lớp tàu sân bay _Midway**_ của Hải quân Hoa Kỳ là một trong những thiết kế tàu sân bay có thời gian phục vụ lâu nhất trong lịch sử. Được đưa ra hoạt động lần
**Suzuya** (tiếng Nhật: 鈴谷 S_uzuya_) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ ba trong tổng số bốn chiếc thuộc lớp _Mogami_. Tên của nó được
**USS _Portland_ (CL/CA–33)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó vốn bao gồm cả chiếc . Nó là chiếc tàu chiến đầu
**_Tone_** (tiếng Nhật: 利根) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó vốn bao gồm cả chiếc _Chikuma_. Tên của nó
nhỏ|phải|Thiếu tá Fuchida chuẩn bị cho trận Trân Châu cảng là một phi công của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trước và trong Chiến tranh thế giới thứ hai với quân hàm Đại tá.
**_Jintsū_** (tiếng Nhật: 神通) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp _Sendai_. Tên của nó được đặt theo sông Jinzu tại tỉnh Gifu và Toyama ở
**_Kumano_** (tiếng Nhật: 熊野) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc cuối cùng trong tổng số bốn chiếc thuộc lớp _Mogami_. _Kumano_ từng hoạt động trong
nhỏ|phải|Sơ đồ sân bay Midway **Sân bay quốc tế Chicago Midway** , cũng được biết đến chỉ đơn giản là **Sân bay Midway** hoặc **Midway**, là một sân bay ở Chicago, Illinois, Hoa Kỳ, nằm
(17 tháng 8 1892 - 4 tháng 6 1942) là một Phó đô đốc Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Ông tham gia chỉ huy lực lượng nhỏ
**_Yura_** (tiếng Nhật: 由良) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Nagara_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Tên của nó được đặt theo sông Yura gần Kyoto của Nhật Bản. Nó
**USS _New Orleans_ (CA-32)** (trước là **CL-32**) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó. Tên của nó được đặt theo thành phố
**USS _Minneapolis_ (CA-36)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _New Orleans_, là chiếc tàu chiến thứ hai được đặt tên theo thành phố Minneapolis thuộc tiểu bang
nhỏ|phải|Các tàu khu trục [[Shigure (tàu khu trục Nhật)|_Shigure_ và _Samidare_ hoạt động ngoài khơi bờ biển Bougainville trong quần đảo Solomon, vài giờ trước trận Hải chiến Vella Lavella vào ngày 7 tháng 10
**_Nagara_** (tiếng Nhật: 長良) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó. Tên của nó được đặt theo tên sông Nagara
**_Sendai_** (tiếng Nhật: 川内) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm ba chiếc, và được đặt tên theo
**_Murasame_** (tiếng Nhật: 村雨) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp tàu khu trục _Shiratsuyu_ bao gồm mười chiếc. _Murasame_ đã từng tham gia nhiều hoạt
**USS _Hornet_ (CV-8)** là một tàu sân bay thuộc lớp _Yorktown_ hoạt động trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ bảy trong lịch sử Hải quân Hoa Kỳ được
**_Chitose_** (tiếng Nhật: 千歳) là một tàu sân bay hạng nhẹ của hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Thế Chiến II. Không nên nhầm nó với chiếc tàu tuần dương Chitose. Nguyên là một
**_Hatsukaze_** (tiếng Nhật: 初風) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp _Kagerō_ đã phục vụ tại Mặt trận Thái Bình Dương trong Chiến tranh Thế giới
nhỏ|_Harusame_ bị trúng ngư lôi bởi _Wahoo_ **_Harusame_** (tiếng Nhật: 春雨) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp tàu khu trục _Shiratsuyu_ bao gồm mười chiếc.
**_Yudachi_** (tiếng Nhật: 夕立) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp tàu khu trục _Shiratsuyu_ bao gồm mười chiếc. _Yudachi_ đã từng tham gia nhiều hoạt
**_I-71_**, sau đổi tên thành **_I-171_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**_I-66_**, sau đổi tên thành **_I-166_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai V nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1932. Nó đã phục vụ trong