✨Midway (lớp tàu sân bay)

Midway (lớp tàu sân bay)

Lớp tàu sân bay _Midway_ của Hải quân Hoa Kỳ là một trong những thiết kế tàu sân bay có thời gian phục vụ lâu nhất trong lịch sử. Được đưa ra hoạt động lần đầu tiên vào cuối năm 1945, chiếc dẫn đầu của lớp, Midway (CV-41) chỉ được cho ngừng hoạt động vào năm 1992, không lâu sau khi đã tham gia chiến đấu trong cuộc Chiến tranh vùng vịnh.

Nguồn gốc và thiết kế

Lớp tàu CVB-41 (lúc đó còn chưa được đặt tên) ban đầu được nghĩ ra vào năm 1940 như một nghiên cứu thiết kế nhằm xác định ảnh hưởng của một sàn đáp được bọc thép trên một tàu sân bay có kích cỡ tương đương với lớp Essex. Các kết quả tính toán cho thấy sẽ ảnh hưởng lớn đến tầm cỡ của lực lượng không quân được bố trí, khi số lượng máy bay có thể hoạt động chỉ là 45, so với 90–100 chiếc trên một tàu sân bay hạm đội tiêu chuẩn thuộc lớp Essex. Kết quả là, xu hướng thiết kế đi theo hướng một tàu sân bay lớn hơn có thể hỗ trợ cả một sàn đáp bọc thép và một lực lượng không quân lớn. Không giống như những tàu sân bay của Hải quân Hoàng gia Anh, trong đó sàn đáp bọc thép là một phần của cấu trúc thân tàu, lớp Midway giữ lại thiết kế "sàn tàu chắc" ở mức sàn chứa máy bay, trong khi sàn đáp bọc thép chỉ là một phần của cấu trúc thượng tầng. Các biện pháp giảm trọng lượng cần thiết cho một sàn đáp bọc thép được thực hiện bằng cách tháo bỏ một khẩu đội pháo 203 mm (8 inch) có cỡ nòng kiểu tàu tuần dương, và giới hạn số khẩu đội phòng không 127 mm (5 inch) từ nòng đôi thành nòng đơn. Chúng là những tàu sân bay cuối cùng của Hải quân Mỹ được thiết kế như vậy; kích cỡ khổng lồ của lớp siêu hàng không mẫu hạm Forrestal đòi hỏi lớp sàn tàu chắc phải được thiết kế ở mức độ sàn đáp.

Thiết kế tàu sân bay mới là những con tàu rất lớn, với khả năng mang được nhiều máy bay hơn mọi tàu sân bay khác trong hạm đội Mỹ (nhiều hơn 30–40 máy bay so với lớp Essex). Trong cấu hình ban đầu, lớp Midway dự định sẽ có một lực lượng máy bay lên đến 130 chiếc. Điều không may là, người ta nhanh chóng nhận ra là quá nhiều máy bay sẽ ở bên ngoài khả năng kiểm soát và chỉ huy hiệu quả của một con tàu.

Trong khi kiểu tàu sân bay mới có đặc tính bảo vệ tuyệt vời và một lực lượng không quân phối thuộc lớn chưa từng thấy, chúng cũng có nhiều tính chất không được mong đợi. Bên trong tàu khá chật hẹp; chỗ trống sẵn có thường rất ít. Khi di chuyển trong vùng biển động, con tàu bị tràn nhiều nước, điều này chỉ được làm giảm nhẹ một phần sau khi được trang bị một mũi tàu kín chống bão khi được trang bị nâng cấp SCB-110/110A; và bị tắc nghẽn nút cổ chai ảnh hưởng đến hoạt động cất cánh và hạ cánh.

Lịch sử hoạt động

Không có chiếc nào trong lớp Midway tham gia Chiến tranh Triều Tiên, chúng chủ yếu được bố trí tại Đại Tây Dương và Địa Trung Hải. Trong những năm 1950, cả ba chiếc trong lớp đều trải qua chương trình hiện đại hóa SCB-110, bổ sung thêm một sàn đáp chéo góc, máy phóng thủy lực, hệ thống gương hỗ trợ hạ cánh và các cải tiến khác giúp cho chúng có thể hoạt động cùng thế hệ máy bay phản lực mới lớn và nặng nề.

Cả ba chiếc trong lớp Midway đều từng được bố trí để tham gia Chiến tranh Việt Nam. Coral Sea được bố trí đến vịnh Bắc Bộ sáu lần, Midway được bố trí ba lần và Franklin D. Roosevelt một lần trước khi quay trở lại khu vực Địa Trung Hải.

Vào cuối những năm 1960, Midway trải qua một chương trình tái cấu trúc và hiện đại hóa vốn rất tốn kém và bị tranh cãi đến mức chúng không được lặp lại trên các con tàu khác. Trong những năm 1970, Franklin D. RooseveltCoral Sea bắt đầu biểu hiện sự già cỗi. Chúng giữ lại những chiếc máy bay tiêm kích F-4 Phantom II trong các liên đội không quân vì quá nhỏ không thể sử dụng những chiếc máy bay tiêm kích bảo vệ hạm đội mới F-14 Tomcat hoặc máy bay phản lực S-3 Viking chống tàu ngầm. Vào năm 1977, Franklin D. Roosevelt được cho ngừng hoạt động. Trong đợt bố trí cuối cùng, Roosevelt nhận lên tàu những chiếc AV-8 Harrier để trắc nghiệm khái niệm bao gồm những chiếc máy bay cất cánh thẳng đứng VSTOL trong liên đội máy bay của tàu sân bay.

Coral Sea được cứu khỏi số phận cho ngừng hoạt động sắp đến nơi do việc Ronald Reagan được bầu làm Tổng thống vào năm 1980. Đề nghị của Reagan về một kế hoạch Hải quân 600 tàu chiến mang sức sống mới cho các con tàu còn lại. Coral Sea được trải qua các đợt tái trang bị rộng rãi nhằm khắc phục tình trạng kém của con tàu. Khi những chiếc máy bay tiêm kích mới F/A-18 Hornet được đưa ra hoạt động vào giữa những năm 1980, Hải quân Mỹ nhanh chóng bố trí chúng trên MidwayCoral Sea nhằm thay thế những chiếc F-4 già cỗi. Một đợt tái trang bị cho Midway vào năm 1986 trang bị các bầu hai bên thân tàu nhằm mở rộng thêm khoảng trống. Trong khi mục tiêu này đạt được, chúng lại đưa đến tình trạng lật nghiêng nhanh nguy hiểm ngăn trở Midway không thể hoạt động không quân khi biển động. Do đó các bầu hai bên này không được lặp lại trên Coral Sea.

Thời đại của Reagan không thể kéo dài vĩnh viễn. Vào năm 1990, sau khi Liên Xô sụp đổ, Coral Sea vốn được đặt cho biệt danh "Ageless Warrior" (chiến binh không già cỗi), được cho ngừng hoạt động. Midway còn một cuộc chiến cuối cùng để tham gia, khi nó là một trong số sáu tàu sân bay được Mỹ bố trí chống lại Iraq trong cuộc Chiến tranh vùng vịnh. Vài tháng sau khi chiến tranh kết thúc, chiếc cuối cùng của lớp ngừng hoạt động cùng Hải quân Mỹ.

Coral Sea được tháo dỡ một cách chậm chạp tại Baltimore vì những vấn đề về pháp lý và môi trường liên tục trì hoãn số phận của nó. Nó có thể là chiếc tàu chiến lớn cuối cùng được tháo dỡ tại Bắc Mỹ. Những chiếc tàu sân bay khác như AmericaOriskany đã được đánh chìm một cách có chủ đích để tạo thành các dãy san hô nhân tạo, và đây có thể sẽ là số phận của những con tàu tiếp theo. Midway trải qua 5 năm trong "hạm đội bỏ xó" tại Bremerton, Washington trước khi được cứu bởi một nhóm bảo tàng. Con tàu giờ đây được mở cho công chúng tham quan như một tàu bảo tàng tại San Diego, California.

Các đặc tính chung

Như được chế tạo (thập niên 1940)

phải|nhỏ|[[USS Franklin D. Roosevelt (CV-42)|Franklin D. Roosevelt (CV-42)]]

  • Lượng rẽ nước: 45.000 tấn (tiêu chuẩn)
  • Chiều dài: 295 m (968 ft)
  • Mạn thuyền: 34,4 m (113 ft) mực nước
  • Tầm nước: 10 m (33 ft) tối đa
  • Lực đẩy: Turbine hơi nước; công suất 212.000 mã lực (158 MW); bốn trục
  • Tốc độ: 61 km/h (33 knot)
  • Vũ khí: 18 × pháo 127 mm (5 inch)/54 caliber Mark 16; 21 × khẩu đội bốn nòng Bofors 40 mm; 28 × pháo Oerlikon 20 mm
  • Máy bay: 130 (lý thuyết), 100 (thực tế)

    USS Coral Sea, khi nghỉ hưu (1991)

    phải|nhỏ|[[USS Coral Sea (CV-43)|Coral Sea (CV-43)]]

  • Lượng rẽ nước: 65.200 tấn (đầy tải)
  • Chiều dài: 305,7 m (1003 ft)
  • Mạn thuyền: 72 m (236 ft)
  • Tầm nước: 10,7 m (35 ft)
  • Lực đẩy: Turbine hơi nước; công suất 212.000 mã lực (158 MW); bốn trục
  • Tốc độ: 61 km/h (33 knot)
  • Vũ khí: 2 × Phalanx CIWS Mark 71
  • Máy bay: 65

    USS Midway, khi nghỉ hưu (1992)

  • Lượng rẽ nước: 69.873 tấn (đầy tải tiêu chuẩn)
  • Chiều dài: 297,5 m (976 ft)
  • Mạn thuyền: 80,3 m (263 ft 6 in) sàn đáp
  • Tầm nước: 10,7 m (35 ft)
  • Lực đẩy: Turbine hơi nước; công suất 212.000 mã lực (158 MW); bốn trục
  • Tốc độ: 61 km/h (33 knot)
  • Vũ khí: 2 × dàn phóng 8 ống tên lửa Sea Sparrow; 2 × Phalanx CIWS Mark 71
  • Máy bay: 75
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lớp tàu sân bay _Midway**_ của Hải quân Hoa Kỳ là một trong những thiết kế tàu sân bay có thời gian phục vụ lâu nhất trong lịch sử. Được đưa ra hoạt động lần
**_Essex_** là một lớp tàu sân bay của Hải quân Hoa Kỳ, vốn đưa ra số lượng tàu chiến hạng nặng với số lượng nhiều nhất trong thế kỷ 20, với tổng cộng 24 tàu
**Lớp tàu sân bay _Forrestal**_ là một lớp bao gồm bốn chiếc tàu sân bay được thiết kế và chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ vào thập niên 1950. Đây là lớp đầu tiên
**Lớp tàu sân bay _Yorktown**_ bao gồm ba tàu sân bay được Hoa Kỳ chế tạo, hoàn tất và đưa vào sử dụng không lâu trước Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra. Chúng
**Lớp _Casablanca**_ là lớp tàu sân bay hộ tống với số lượng tàu sân bay lớn nhất từng được chế tạo, với năm mươi chiếc được đặt lườn, hạ thủy và nhập biên chế trong
**Lớp tàu sân bay _Lexington**_ bao gồm hai chiếc tàu sân bay hạm đội hoạt động đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ. Ban đầu được đặt lườn vào giai đoạn cuối của Chiến tranh
**Lớp tàu sân bay _Chitose**_ (tiếng Nhật: 千歳型航空母艦; Chitose-gata kōkūbokan) bao gồm hai tàu sân bay hạng nhẹ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản sử dụng trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Ban
nhỏ|250x250px|Hàng không mẫu hạm lớn nhất thế giới. Nhân viên điều hành trên tháp quan sát của chiếc [[USS Ronald Reagan của Hoa Kỳ.|thế=]] **Tàu sân bay** (tiếng Anh: _aircraft carrier_), hay **hàng không mẫu
**_Shōkaku_** (, nghĩa là _Chim hạc bay liệng_) là một tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, và tên của nó được đặt cho lớp tàu này. Cùng với chiếc tàu chị
**_Shinyo_** () là một tàu sân bay hộ tống được Hải quân Đế quốc Nhật Bản đưa ra hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó nguyên là chiếc tàu biển chở hành
**_Kaga_** **(tiếng Nhật: 加賀**, _Gia Hạ_) là một tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ hai; là chiếc tàu sân bay thứ ba của Hải quân
**_Akagi_** (tiếng Nhật: 赤城; Hán-Việt: _Xích Thành_) là một tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, được đặt tên theo núi Akagi thuộc
**_Hiryū_** (**Nhật**: 飛龍, _Phi Long_) là một tàu sân bay thuộc lớp Sōryū được cải biến của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó là một trong những tàu sân bay Nhật đã mở đầu
**_Junyō_** (kanji: 隼鷹, âm Hán-Việt: Chuẩn ưng, nghĩa là "đại bàng") là một tàu sân bay thuộc lớp _Hiyō_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó được đặt lườn bởi hãng _Nippon Yusen Kaisha_
**_Zuikaku_** (, có nghĩa là "chim hạc may mắn") là một tàu sân bay thuộc lớp tàu _Shōkaku_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó đã tham gia vào sự kiện tấn công Trân
**_Shinano_** (tiếng Nhật: 信濃) là một tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Thế Chiến II. Tên nó được đặt theo tỉnh Shinano, một tỉnh cũ của Nhật Bản. Ban đầu
**_Chūyō_** () là một tàu sân bay hộ tống thuộc lớp _Taiyō_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản sử dụng trong Thế Chiến II. Nó nguyên là một tàu biển chở khách được cải
**Midway** có thể chỉ: *Midway (hội chợ), một chỗ ở hội chợ hay gánh xiếc, nơi người ta tập trung vòng quay ngựa gỗ và các trò chơi giải trí. ## Rạn san hô vòng
**USS _Midway_ (CVB/CVA/CV-41)** là một tàu sân bay của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó, và là chiếc tàu sân bay đầu tiên được đưa ra hoạt động sau
**Lớp tàu tuần dương _Nagara**_ (tiếng Nhật: 長良型軽巡洋艦, Nagaragata Keijunyōkan) là một lớp tàu tuần dương hạng nhẹ bao gồm sáu chiếc của Hải quân Đế quốc Nhật Bản từng tham gia nhiều hoạt động
**Lớp tàu tuần dương _Kuma**_ (tiếng Nhật: 球磨型軽巡洋艦; Kuma-gata keijunyōkan) bao gồm năm tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Lớp _Kuma_ được tiếp nối bởi lớp _Nagara_ rất tương
**_Ibuki_** (tiếng Nhật: 伊吹) là chiếc tàu tuần dương hạng nặng cuối cùng được đặt tên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Được đặt lườn vào năm 1942 và hạ thủy vào năm 1943,
**Tàu ngầm lớp Sōryū** (tiếng Nhật: そうりゅう) hay **16SS** là lớp tàu ngầm điện-diesel do Mitsubishi Heavy Industries và Kawasaki Heavy Industries hợp tác chế tạo cho Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản
**_Portland_** là một lớp tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ được chế tạo vào đầu những năm 1930, bao gồm hai chiếc: và . ## Nguồn gốc _Portland_ là lớp tàu
**Lớp tàu tuần dương _Mogami**_ (tiếng Nhật: 最上型巡洋艦, Mogami-gata junyōkan) là một lớp tàu tuần dương hạng nặng bao gồm bốn chiếc của Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào giữa những năm 1930. Thoạt
**USS _Franklin D. Roosevelt_ (CVB/CVA/CV-42)** là một tàu sân bay của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc thứ hai trong lớp _Midway_, được đưa ra hoạt động sau khi Chiến tranh Thế giới thứ hai
**USS _Gambier Bay_ (CVE-73)** là một tàu sân bay hộ tống lớp _Casablanca_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai; tên nó được đặt theo một vịnh tại
**Lớp thiết giáp hạm _Ise**_ (tiếng Nhật: 伊勢型戦艦; Ise-gata senkan) là một lớp thiết giáp hạm bao gồm hai chiếc của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh
**USS _Kalinin Bay_ (CVE-68)** là một tàu sân bay hộ tống lớp _Casablanca_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai; tên nó được đặt theo một vịnh trên
**USS _San Jacinto_ (CVL-30)** là một tàu sân bay hạng nhẹ của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _Independence_, và là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ mang cái tên này. Hoạt
**USS _Windham Bay_ (CVE-92/CVU-92)** là một tàu sân bay hộ tống lớp _Casablanca_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên nó được đặt theo một vịnh cách
**USS _Nehenta Bay_ (CVE–74)** là một tàu sân bay hộ tống lớp _Casablanca_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã hoạt động cho đến hết Thế
là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm bốn chiếc. Tên của nó được đặt theo con sông Mogami
**_Mikuma_** (tiếng Nhật: 三隈) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ hai trong tổng số bốn chiếc thuộc lớp _Mogami_. Tên của nó được đặt
**Suzuya** (tiếng Nhật: 鈴谷 S_uzuya_) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ ba trong tổng số bốn chiếc thuộc lớp _Mogami_. Tên của nó được
**_Kumano_** (tiếng Nhật: 熊野) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc cuối cùng trong tổng số bốn chiếc thuộc lớp _Mogami_. _Kumano_ từng hoạt động trong
**_I-69_**, sau đổi tên thành **_I-169_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**_Yura_** (tiếng Nhật: 由良) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Nagara_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Tên của nó được đặt theo sông Yura gần Kyoto của Nhật Bản. Nó
**_Jintsū_** (tiếng Nhật: 神通) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp _Sendai_. Tên của nó được đặt theo sông Jinzu tại tỉnh Gifu và Toyama ở
**_Tone_** (tiếng Nhật: 利根) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó vốn bao gồm cả chiếc _Chikuma_. Tên của nó
**_Chikuma_** (tiếng Nhật: 筑摩) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ hai trong lớp _Tone_ vốn chỉ có hai chiếc. Tên của nó được đặt
**_Nagara_** (tiếng Nhật: 長良) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó. Tên của nó được đặt theo tên sông Nagara
**_I-65_**, sau đổi tên thành **_I-165_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai V nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1932. Nó đã phục vụ trong
**_Sendai_** (tiếng Nhật: 川内) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm ba chiếc, và được đặt tên theo
**_I-59_**, sau đổi tên thành **_I-159_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIB nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1929. Trong Chiến tranh Thế giới thứ
nhỏ|phải|Các tàu khu trục _Shigure_ và [[Samidare (tàu khu trục Nhật)|_Samidare_ hoạt động ngoài khơi bờ biển Bougainville trong quần đảo Solomon, vài giờ trước trận Hải chiến Vella Lavella vào ngày 7 tháng 10
**_Myōkō_** (tiếng Nhật: 妙高) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm bốn chiếc; những chiếc còn lại trong
**_I-66_**, sau đổi tên thành **_I-166_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai V nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1932. Nó đã phục vụ trong
**_Hatsukaze_** (tiếng Nhật: 初風) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp _Kagerō_ đã phục vụ tại Mặt trận Thái Bình Dương trong Chiến tranh Thế giới
**_Atago_** (tiếng Nhật: 愛宕) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp _Takao_ bao gồm bốn chiếc, được thiết kế cải tiến dựa trên lớp _Myōkō_ trước