✨Lexington (lớp tàu sân bay)

Lexington (lớp tàu sân bay)

Lớp tàu sân bay _Lexington_ bao gồm hai chiếc tàu sân bay hạm đội hoạt động đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ. Ban đầu được đặt lườn vào giai đoạn cuối của Chiến tranh Thế giới thứ nhất như những tàu chiến-tuần dương, chúng được cải biến trong khi đang được chế tạo thành những tàu sân bay để tuân thủ những quy định của Hiệp ước Hải quân Washington năm 1922. Chiếc thứ ba trong lớp, Saratoga, được hoàn tất nhiều hơn so với chiếc thứ hai Constellation khi những con tàu được xem xét việc cải biến, nên Saratoga được tiếp tục chế tạo và Constellation bị tháo dỡ. Các hoạt động trên quy mô lớn thành công đối với những tàu tàu sân bay trong lớp khi so với những hoạt động hạn chế trên chiếc tàu sân bay Ranger nhỏ hơn nhiều đã thuyết phục được Hải quân rằng những tàu sân bay lớn sẽ có hiệu quả hơn những chiếc nhỏ, một xu hướng được tiếp nối trong nhiều năm sau đó.

Ngoài kích cỡ rất ấn tượng, đặc tính tiên tiến nhất của chúng là "mũi tàu chống bão", một cấu hình tàu sân sân bay mà mũi tàu được làm kín cho đến sàn đáp. Kết cấu như vậy được cho là hữu ích nhất trong số ba cấu hình dành cho mũi tàu sân bay (các cấu hình khác bao gồm một sàn cất cánh bổ sung hoặc một sàn hỏa lực phòng không).

Thiết kế tàu chiến-tuần dương ban đầu

Những nghiên cứu về thiết kế tàu chiến-tuần dương ban đầu có nhiều điểm chung với khái niệm "tàu tuần dương lớn nhẹ" của Đô đốc Jackie Fisher. Chúng là những tàu chiến-tuần dương có trọng lượng rẽ nước thấp với hầu như không có vỏ giáp và được trang bị đến 20 khẩu pháo 305 mm (12 inch) bố trí trên năm tháp pháo bốn nòng. Một thiết kế thay đổi được tiến hành vào năm 1916 với mười khẩu pháo 355 mm (14 inch) bố trí trên hai tháp pháo đôi và hai tháp pháo ba nòng và một lớp vỏ giáp rất mỏng, với phân nửa số nồi hơi được đặt bên trên sàn bảo vệ và có trọng lượng rẻ nước là 36.500 tấn. Vào lúc thiết kế lớp tàu chiến-tuần dương hoàn tất, những con tàu có trọng lượng rẻ nước trên 43.000 tấn và trang bị tám khẩu pháo 406 mm (16 inch) cùng 16 khẩu 152 mm (6 inch). Những chiếc tàu chiến-tuần dương bị hủy bỏ là những tàu chiến Mỹ cuối cùng sử dụng tháp pháo đôi, khi những chiếc thiết giáp hạm nhanh thời Chiến tranh thế giới thứ hai chỉ sử dụng tháp pháo ba nòng.

Trong số sáu chiếc tàu chiến-tuần dương mà việc chế tạo bị hủy bỏ, hai chiếc được đặt tên theo các trận chiến (LexingtonSaratoga) và bốn chiếc được đặt tên theo các tàu chiến Hải quân Mỹ nổi tiếng trong quá khứ (Constellation, Constitution, United StatesRanger). Lớp tàu sân bay Lexington trở thành những chiếc tàu sân bay lớn nhất từng phục vụ trong hạm đội cho đến khi xuất hiện lớp Midway sau chiến tranh.

Thiết kế tàu sân bay

Những con tàu này đã trở thành khuôn mẫu cho việc thiết kế các tàu sân bay Mỹ trong tương lai: thân tàu tàu dài và rất lớn với sàn đáp bên trên và một đảo cấu trúc thượng tầng bên mạn phải kết hợp việc chỉ huy-kiểm soát con tàu đồng thời là các ống khói, và một sàn chứa máy bay rộng rãi. Với chiều cao lên đến 6,2 m (20 ft 3 in), sàn chứa máy bay của Lexington là lớn nhất trên thế giới cho đến khi xuất hiện lớp siêu hàng không mẫu hạm Forrestal vào giữa thập niên 1950. Những ống khói cao đã giúp thoát khói ra xa khỏi sàn đáp, giúp tránh được những vấn đề che khuất tầm nhìn thường gặp trên những chiếc tàu sân bay đời đầu.

Lexington từng được sử dụng cho một nhiệm vụ dân sự bất thường vào tháng 12 năm 1929. Một cơn hạn hán kéo dài tại khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương đã ảnh hưởng trầm trọng đến nguồn cung cấp thủy điện cho thành phố Tacoma, Washington. Những lời thỉnh cầu của các chính trị gia địa phương lên Tổng thống Mỹ đã đưa đến việc chiếc Lexington được gửi đến neo đậu tại một bến tàu của thành phố. Các nồi hơi và turbine của nó đã phát điện và được nối vào lưới điện địa phương cho đến khi cơn hạn hán chấn dứt vào tháng 1 năm 1930.

Vào lúc đưa ra hoạt động, các tàu sân bay được trang bị dàn pháo như trên các tàu tuần dương hạng nặng, bao gồm bốn tháp súng 203 mm (8 inch) nòng đôi; Văn phòng Thiết kế và Sửa chữa Hải quân đã không tin tưởng vào máy bay như một phương tiện vũ khí, và đã trang bị các khẩu pháo cỡ lớn, cho dù khi khai hỏa chúng sẽ xé toạc sàn đáp, ngay cả khi được bắn ở mộc góc. Kinh nghiệm có được trong các cuộc tập trận "Vấn đề Hạm đội" trong những năm 1930 chứng tỏ rằng quan điểm của Văn phòng Thiết kế là sai lầm, và hạm đội mong muốn nhanh chóng tháo bỏ các khẩu pháo 203 mm (8 inch). Tải trọng chính thức của con tàu được công bố là 33.000 tấn (để phù hợp với Hiệp ước Washington) cho dù trong thực tế cả hai chiếc đều vượt quá trọng lượng đó: 36.000 tấn rẽ nước tiêu chuẩn và gần đến 40.000 tấn khi chất đầy nhiên liệu, đạn dược, máy bay và xăng máy bay.

Không lâu sau trận Trân Châu Cảng, các khẩu pháo 203 mm (8 inch) của cả hai con tàu được tháo dỡ để sử dụng vào việc phòng thủ duyên hải tại Hawaii. Trên chiếc Lexington, những vũ khí này được thay thế bằng các khẩu đội bốn nòng 28 mm (1,1 inch)/75, vốn phù hợp hơn cho vai trò phòng không nhưng trong hoạt động thực tế lại kkông mấy hiệu quả. Chúng được thay thế trên chiếc Saratoga bằng các khẩu /38-caliber đa dụng thích hợp để sử dụng trên tàu sân bay, mặc dù Lexington bị đánh chìm trong trận chiến biển Coral trước khi được trang bị kiểu pháo mới.

Lịch sử hoạt động

Có hai chiếc tàu sân bay thuộc lớp Lexington: USS Lexington (CV-2) (tên lóng "Lady Lex") và USS Saratoga (CV-3) (còn gọi là "Sister Sara"). Cả hai chiếc đều là mục tiêu của những cuộc tấn công bằng ngư lôi. Lexington bị đánh trúng ba đến năm ngư lôi trong trận chiến biển Coral vào tháng 5 năm 1942. Mặc dù bị ngập nước, những hư hỏng tỏ ra có thể kiểm soát được và con tàu bắt đầu quay trở lại các hoạt động không lực thường lệ. Tuy nhiên, hơi xăng máy bay thoát ra từ những thùng chứa bị thủng bị kích nổ bởi tia lửa điện từ động cơ phát điện, gây ra một vụ nổ lớn bên trong làm phá hủy các hầm tàu bên dưới. Đám cháy không thể kiểm soát được và gây thêm nhiều vụ nổ phụ. Con tàu bị bỏ lại và được phóng ngư lôi đánh chìm.

Saratoga hai lần bị loại khỏi vòng chiến đấu sau khi bị tàu ngầm Nhật tấn công, hệ thống động lực bằng điện tỏ ra khá mong manh khi bị ngập nước. Tuy nhiên, trong cả hai lần đó, con tàu đều có thể quay trở về cảng bằng chính động lực của nó. Hoạt động đáng kể nhất của Saratoga là trong Trận Đông Solomons, nơi máy bay của nó đã đánh chìm tàu sân bay Nhật Ryūjō. Sau khi các hư hỏng Saratoga được sửa chữa, sự có mặt của các tàu sân bay mới thuộc lớp Essex khiến vai trò của nó bị lu mờ, và nó được giao nhiệm vụ huấn luyện. Ngoài ra, mặc dù có chiều cao của sàn chứa máy bay ấn tượng, những thang nâng dùng để đưa máy bay lên sàn đáp của nó quá nhỏ không dùng được cho những máy bay hiện đại. Saratoga sống sót trải qua Thế Chiến II và cuối cùng được sử dụng làm mục tiêu thử nghiệm bom nguyên tử tại đảo san hô Bikini.

Những chiếc trong lớp

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lớp tàu sân bay _Lexington**_ bao gồm hai chiếc tàu sân bay hạm đội hoạt động đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ. Ban đầu được đặt lườn vào giai đoạn cuối của Chiến tranh
**_Essex_** là một lớp tàu sân bay của Hải quân Hoa Kỳ, vốn đưa ra số lượng tàu chiến hạng nặng với số lượng nhiều nhất trong thế kỷ 20, với tổng cộng 24 tàu
**Lớp tàu sân bay _Yorktown**_ bao gồm ba tàu sân bay được Hoa Kỳ chế tạo, hoàn tất và đưa vào sử dụng không lâu trước Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra. Chúng
**Lớp tàu sân bay _Zuihō**_ (tiếng Nhật: 瑞鳳型航空母艦; Zuihō-gata kōkūbokan) bao gồm hai tàu sân bay hạng nhẹ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản sử dụng trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Cả
nhỏ|250x250px|Hàng không mẫu hạm lớn nhất thế giới. Nhân viên điều hành trên tháp quan sát của chiếc [[USS Ronald Reagan của Hoa Kỳ.|thế=]] **Tàu sân bay** (tiếng Anh: _aircraft carrier_), hay **hàng không mẫu
**_Shōkaku_** (, nghĩa là _Chim hạc bay liệng_) là một tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, và tên của nó được đặt cho lớp tàu này. Cùng với chiếc tàu chị
**_Zuikaku_** (, có nghĩa là "chim hạc may mắn") là một tàu sân bay thuộc lớp tàu _Shōkaku_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó đã tham gia vào sự kiện tấn công Trân
**_Shōhō_** (tiếng Nhật: 祥鳳, phiên âm Hán-Việt: _Triển Phụng_, nghĩa là "Phượng hoàng may mắn") là một tàu sân bay hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, tên của nó cũng được đặt
**Lớp _Lexington**_ là lớp tàu chiến-tuần dương duy nhất được Hải quân Hoa Kỳ đặt hàng. Sáu chiếc trong lớp - được đặt những cái tên liên quan đến Chiến tranh Độc lập Hoa Kỳ
Chiếc **USS _Lexington_ (CV-2)**, có tên lóng là "Gray Lady" hoặc "Lady Lex", là một trong những tàu sân bay đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ. Tên nó được dùng để đặt cho lớp
**Lớp tàu tuần dương _Alaska**_ là một lớp bao gồm sáu tàu tuần dương rất lớn được Hải quân Hoa Kỳ đặt hàng trước Chiến tranh thế giới thứ hai. Cho dù thường được gọi
**USS _Lexington_ (CV/CVA/CVS/CVT/AVT-16)**, tên lóng "The Blue Ghost", là một trong số 24 tàu sân bay thuộc lớp _Essex_ được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ trong Thế Chiến II. Nó là chiếc tàu
**Lớp tàu khu trục _Wickes**_ (từ DD-75 đến DD-185) là một nhóm 111 tàu khu trục được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong những năm 1917-1919. Cùng với 6 chiếc lớp _Caldwell_ dẫn trước
thumb|USS _Bon Homme Richard_ với mũi tàu kín chống bão và sàn đáp chéo góc sau khi được cải biến SCB-125. thumb|upright|Nhìn từ bên trên chiếc USS _Intrepid_ sau cải biến SCB-27C (bên trái) và
**USS _San Francisco_ (CA-38)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _New Orleans_, là chiếc tàu chiến thứ hai được đặt tên theo thành phố San Francisco thuộc
**_Isuzu_** (tiếng Nhật: 五十鈴) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Nagara_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Tên của nó được đặt theo sông Isuzu gần đền Ise thuộc khu vực
**_Noshiro_** (tiếng Nhật: 能代) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Agano_ đã phục vụ cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó bị máy bay
**Lớp thiết giáp hạm _South Dakota**_ thứ nhất là một lớp bao gồm sáu thiết giáp hạm, được đặt lườn vào năm 1920 cho Hải quân Hoa Kỳ nhưng chưa bao giờ hoàn tất. Nếu
**_I-15_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã
**_ Kinu_** (tiếng Nhật: 鬼怒) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Nagara_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Tên của nó được đặt theo sông Kinu trong tỉnh Tochigi của Nhật
**_Yahagi_** (tiếng Nhật: 矢矧) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Agano_ đã phục vụ cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. _Yahagi_ đã bị máy
**USS _Ranger_ (CV/CVA-61)** là chiếc thứ ba trong số bốn chiếc siêu hàng không mẫu hạm lớp _Forrestal_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Thập niên 1950. Cho dù cả bốn chiếc trong
**_I-26_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_Tama_** (tiếng Nhật: 多摩) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Kuma_ từng hoạt động cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên của nó được
**_I-23_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_Katori_** (tiếng Nhật: 香取) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó gồm ba chiếc, và đã phục vụ trong Chiến
**_Kashima_** (tiếng Nhật: 鹿島) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ hai được hoàn tất trong lớp _Katori_ gồm ba chiếc. Tên của nó được
nhỏ|phải|[[HMS Hood (51)|HMS _Hood_, tàu chiến-tuần dương lớn nhất từng được chế tạo, lớn hơn mọi thiết giáp hạm Anh Quốc cho đến khi chiếc HMS _Vanguard_ đưa ra hoạt động vào năm 1946. Nó
**USS _Saratoga_ (CV-3)** là chiếc tàu chiến thứ năm trong lịch sử Hải quân Hoa Kỳ được mang tên **Saratoga**, tên đặt theo trận chiến Saratoga quan trọng trong cuộc Chiến tranh giành độc lập
Sáu tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ từng mang tên **_Lexington_**, được đặt theo tên thị trấn Lexington, Massachusetts, nơi dân quân thuộc địa lần đầu tiên chạm trán với quân đội Anh trong
**USS _Wasp_ (CV/CVA/CVS-18)** là một trong số 24 tàu sân bay thuộc lớp _Essex_ được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ trong Thế Chiến II, và là chiếc tàu chiến thứ chín của Hải
**_Aoba_** (tiếng Nhật: 青葉) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó gồm hai chiếc. Tên của nó được đặt theo
**_Furutaka_** (tiếng Nhật: 古鷹) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản hoạt động trong giai đoạn từ sau Đệ Nhất thế chiến đến Đệ Nhị thế chiến, là
**_Kako_** (tiếng Nhật: 加古) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản hoạt động trong giai đoạn từ sau Đệ Nhất thế chiến đến Đệ Nhị thế chiến, là
là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ hai trong lớp _Aoba_ bao gồm hai chiếc. Tên của nó được đặt theo đỉnh núi Kinugasa tọa
**Lớp thiết giáp hạm _North Carolina**_ là một lớp bao gồm hai thiết giáp hạm, _North Carolina_ và _Washington_, được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ vào cuối thập niên 1930 và đầu thập
**Lớp thiết giáp hạm _South Dakota**_ là một nhóm bốn thiết giáp hạm nhanh được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Chúng là lớp thiết giáp
**Thiết giáp hạm lớp _Iowa**_ là một lớp sáu thiết giáp hạm nhanh của Hải quân Hoa Kỳ được đặt hàng trong những năm 1939 và 1940. Ban đầu lớp tàu được dự định để
**Máy bay ném/thả ngư lôi** là một máy bay quân sự được thiết kế chủ yếu để tấn công tàu thuyền bằng ngư lôi trên không. Máy bay ném ngư lôi đã tồn tại ngay
**_Nachi_** (tiếng Nhật: 那智) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, một trong số bốn chiếc thuộc lớp _Myōkō_; những chiếc khác trong lớp này là _Myōkō_, _Ashigara_
**USS _Langley_ (CV-1/AV-3)** là chiếc tàu sân bay đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ, được cải biến vào năm 1920 từ chiếc tàu tiếp than **USS _Jupiter_ (AC-3)**, và cũng là chiếc tàu đầu
**USS _Astoria_ (CA-34)** (trước đó là **CL-34**) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _New Orleans_, là chiếc tàu chiến thứ hai được đặt tên theo thành phố
**USS _Anderson_ (DD-411)** là một tàu khu trục lớp _Sims_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai; nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân
**USS _Aylwin_ (DD-355)** là một tàu khu trục lớp _Farragut_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn giữa hai cuộc thế chiến. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân
**USS _New Orleans_ (CA-32)** (trước là **CL-32**) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó. Tên của nó được đặt theo thành phố
**USS _Monaghan_ (DD-354)** là một tàu khu trục lớp _Farragut_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn giữa hai cuộc thế chiến. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân
**USS _Worden_ (DD-352)** là một tàu khu trục lớp _Farragut_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn giữa hai cuộc thế chiến. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân
**USS _Pensacola_ (CL/CA-24)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó, và là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Hoa Kỳ
**USS _Minneapolis_ (CA-36)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _New Orleans_, là chiếc tàu chiến thứ hai được đặt tên theo thành phố Minneapolis thuộc tiểu bang
**USS _Russell_ (DD-414)** là một tàu khu trục lớp _Sims_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai; nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân