✨I-159 (tàu ngầm Nhật)

I-159 (tàu ngầm Nhật)

I-59, sau đổi tên thành I-159, là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIB nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1929. Trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, nó đã thực hiện ba chuyến tuần tra rồi tham gia trong trận Midway vào tháng 6, 1942. Con tàu sau đó chủ yếu phục vụ cho việc huấn luyện, và đến đầu năm 1945 được cải biến thành tàu chở ngư lôi tự sát Kaiten trước khi đầu hàng lực lượng Đồng Minh vào cuối chiến tranh. Nó bị đánh chìm vào năm 1946.

Thiết kế và chế tạo

Thiết kế

Phân lớp tàu ngầm Kaidai IIIB là sự lặp lại thiết kế của phân lớp Kaidai IIIA dẫn trước, chỉ có những cải tiến nhỏ để giúp đi biển tốt hơn. Chúng có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn, lườn tàu có chiều dài , mạn tàu rộng và mớn nước sâu . Con tàu có thể lặn sâu và có một thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 60 sĩ quan và thủy thủ.

Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel , mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn, mỗi trục được vận hành bởi một động cơ điện . Con tàu có thể đạt tốc độ tối đa khi nổi và khi lặn. Khi Kaidai IIIB di chuyển trên mặt nước nó đạt tầm xa hoạt động ở tốc độ , và có thể lặn xa ở tốc độ .

Lớp Kaidai IIIA có tám ống phóng ngư lôi , gồm sáu ống trước mũi và hai ống phía đuôi; mỗi ống mang theo một quả ngư lôi nạp lại, nên mang tổng cộng 16 ngư lôi. Chúng cũng trang bị một /45 caliber trên boong tàu.

Chế tạo

I-59 được đặt lườn tại Xưởng vũ khí Hải quân Yokosuka ở Yokosuka vào ngày 25 tháng 3, 1927. Nó được hạ thủy vào ngày 25 tháng 3, 1929, Chuyến đi kết thúc khi họ đến vịnh Sukumo, Shikoku vào ngày 25 tháng 2, 1935. Tại đây I-60 thay phiên cho I-59 trong vai trò soái hạm của Đội tàu ngầm 28 vào ngày 9 tháng 1. Rooseboom lật úp và đắm nhanh chỏng tại tọa độ , để lại khoảng 135 người sống sót trong đó 80 người trên một bè cứu sinh. Hải quân Nhật Bản chịu đựng một thất bại lớn vào ngày 4 tháng 6 trong trận Midway, đúng vào ngày Tư lệnh Đệ Lục hạm đội, Phó đô đốc Komatsu Teruhisa, ra lệnh cho các tàu ngầm trong tuyến tuần tra tiến sang phía Tây.

Sau khi Đô đốc Yamamoto Isoroku, Tổng tư lệnh Hạm đội Liên hợp, ra lệnh cho Komatsu bố trí các tàu ngầm dưới quyền xen giữa hạm đội Nhật Bản đang rút lui và các tàu sân bay Hoa Kỳ, các tàu ngầm bắt đầu rút lui dần về hướng Tây Bắc, di chuyển ngầm với tốc độ vào ban ngày và khi trời tối. I-159 không bắt gặp mục tiêu nào trong suốt trận chiến, và về đến Kwajalein vào ngày 21 tháng 6.

1942 - 1945

I-159 rời Kwajalein vào ngày 22 tháng 6 để quay trở về Kure, đến nơi vào ngày 1 tháng 7. Đến ngày 10 tháng 7, Hải đội Tàu ngầm 5 được giải thể và Đội tàu ngầm 19, bao gồm I-156, I-157, I-158I-159, được điều động sang Lực lượng Phòng vệ Kure trực thuộc Quân khu Hải quân Kure, nơi I-159 bắt đầu đảm nhiệm vài trò tàu huấn luyện cho Trường Tàu ngầm Kure. Đến ngày 18 tháng 7, I-158 thay phiên cho I-159 trong vai trò soái hạm của Đội tàu ngầm 19, rồi đến ngày 1 tháng 12, Đội tàu ngầm 19 lại được điều về Hải đội Tàu ngầm Kure trực thuộc Quân khu Hải quân Kure.

Đến ngày 5 tháng 1, 1944, I-159 tham gia giai đoạn đầu thử nghiệm ngụy trang của Trường Tàu ngầm Hải quân trong biển nội địa Seto, khi được phủ một lớp sơn xanh lá-xám nhạt lên các mặt tháp chỉ huy và phía trên thân tàu, nhằm xác định hiệu quả của màu sơn để tránh bị phát hiện bởi hạm tàu nổi hay máy bay, cũng như xác định độ bền của lớp sơn phủ. Đến cuối tháng 1, con tàu thử nghiệm kíp nổ từ tính Type 2 dành cho ngư lôi Type 95. Từ ngày 23 đến ngày 25 tháng 2, tham gia giai đoạn hai của thử nghiệm ngụy trang, khi màu sơn được áp dụng cho cả sàn tàu.

Tàu ngầm mang ngư lôi Kaiten

Đội tàu ngầm 19 được giải thể vào ngày 20 tháng 4, 1945 và I-159 được điều động sang Đội tàu ngầm 34 trực thuộc Đệ Lục hạm đội. Đến tháng 5, chiếc tàu ngầm được cải biến tại Xưởng vũ khí Hải quân Kure để vận chuyển ngư lôi cảm tử Kaiten. Khẩu hải pháo trên boong tàu được tháo dỡ, và thay thế bằng các bộ gá để vận chuyển hai ngư lôi Kaiten. Sau đó nó được dùng để vận chuyển Kaiten đến các căn cứ tại Shikoku và Kyūshū. Trong tháng 7, 1945, thủy thủ đoàn của I-159, cùng với các chiếc I-156, I-157, I-158I-162, được huấn luyện để phóng ngư lôi Kaiten tấn công trong trường hợp lực lượng Đồng Minh tiến hành đổ bộ trực tiếp lên chính quốc Nhật Bản.

Do nguy cơ bị máy bay Đồng Minh không kích tại Kure, I-159 được chuyển đến cảng Maizuru trên bờ biển phía Đông đảo Honshū trong tháng 8. Đến ngày 6 tháng 8, nó cùng các tàu ngầm I-36, I-155I-156 được điều về Đội Kaiten Shinshu-tai với kế hoạch sẽ xuất phát vào giữa tháng 8 để tấn công tàu bè Đồng Minh. Con tàu đang ở tại cảng Maizuru vào ngày 11 tháng 8, khi nó bị máy bay tiêm kích P-51 Mustang Không lực Hoa Kỳ đặt căn cứ tại Iwo Jima bắn phá, làm thủng thùng dằn chính ở ba chỗ. Sau khi được sửa chữa tạm thời, I-159 được chuyển đến căn cứ Kaiten tại Hirao ở phía Nam đảo Honshū.

Vào ngày 15 tháng 8, I-159 được điều về Đội tàu ngầm 15 trực thuộc Đệ Lục hạm đội cùng các chiếc I-36, I-47, I-157 cùng các tàu ngầm khác. Cùng đúng vào ngày này, Thiên hoàng Hirohito công bố Nhật Bản chấp nhận đầu hàng vô điều kiện, kết thúc vĩnh viễn cuộc xung đột. Tuy nhiên do hiểu nhầm mệnh lệnh này chỉ là ngừng bắn tạm thời, các tàu ngầm tiếp tục chuẩn bị Chiến dịch Shinshu-tai, khi I-159 nhận lên tàu hai ngư lôi Kaiten cùng thủy thủ.

Nó là tàu ngầm duy nhất xuất phát từ Hirao lúc 12 giờ 00 ngày 16 tháng 8 trong Chiến dịch Shinshu-tai, với nhiệm vụ tấn công tàu bè Xô Viết tại khu vực Vladivostok cũng như mọi tàu bè Đồng Minh khác tìm cách gây ngăn trở nó. I-159 băng qua biển nội địa Seto và eo biển Bungo, rồi đi ngầm hướng đến eo biển Ōsumi. Sang ngày hôm sau, lúc đang ở vị trí ngoài khơi Miyazaki thuộc đảo Kyūshū, nó nhận được điện báo từ Hirao là xung đột đã chấm dứt. Con tàu đi đến cảng Aburatsu, Kyūshū trong ngày hôm đó và tiêu hủy mọi tài liệu mật tại đây, rồi lên đường vào ngày 18 tháng 8 để quay trở lại Hirao, nơi nó đầu hàng lực lượng Đồng Minh trong tháng 9.

I-159 được kéo đến Sasebo vào tháng 10, 1945 để tháo dỡ mọi thiết bị hữu ích, và được rút tên khỏi đăng bạ vào ngày 30 tháng 11, 1945. Đến ngày 1 tháng 4, 1946, tàu tiếp liệu tàu ngầm Hoa Kỳ đã kéo nó từ Sasebo đến khu vực ngoài khơi quần đảo Gotō, nơi chiếc tàu ngầm bị đánh đắm bằng hải pháo trong khuôn khổ Chiến dịch Road's End.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_I-59_**, sau đổi tên thành **_I-159_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIB nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1929. Trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_I-121_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 48_** và mang tên **_I-21_** từ năm 1924 đến năm 1938 là một tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu
**_I-122_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 49_** và mang tên **_I-22_** từ năm 1926 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
**_I-56_**, sau đổi tên thành **_I-156_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIB nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1929. Trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_I-57_**, sau đổi tên thành **_I-157_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIB nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1929. Trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_I-181_** (nguyên là **_Tàu ngầm số 159_** và **_I-81_**) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1943. Nó đã
**_I-58_**, sau đổi tên thành **_I-158_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIA nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1928. Trong Chiến tranh Thế giới thứ
Đây là danh sách các tàu chiến thuộc Đế quốc Nhật Bản. ## Tàu chiến trung cổ * Atakebune, Tàu chiến cận bờ thế kỉ 16. * Châu Ấn Thuyền – Khoảng 350 tàu buồm
**USS _Waller_ (DD-466/DDE-466)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**Charles I của Anh** (19 tháng 11 năm 1600 – 30 tháng 1 năm 1649) là vua của ba vương quốc Anh, Scotland, và Ireland từ 27 tháng 3 năm 1625 đến khi bị hành quyết
**HMS _Lion**_ là một tàu chiến-tuần dương của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó, vốn được đặt tên lóng là những "Con mèo Tráng lệ" (Splendid Cats).
**SMS _Derfflinger**_ là một tàu chiến-tuần dương của Hải quân Đế quốc Đức được chế tạo ngay trước khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất nổ ra. Nó là chiếc dẫn đầu trong lớp của
**_Titanic_** là chiếc tàu vượt đại dương chở khách chạy bằng động cơ hơi nước đã đi vào lịch sử ngành hàng hải vì vụ tai nạn hàng hải đã xảy ra với nó
**Chiến tranh Thái Bình Dương** là một phần của Chiến tranh thế giới lần thứ hai diễn ra trên Thái Bình Dương, các hòn đảo thuộc Thái Bình Dương và vùng Đông Á, Đông Nam
**Quảng Bình** là một tỉnh ven biển cũ nằm ở phía nam vùng Bắc Trung Bộ, miền Trung của Việt Nam. Tỉnh lỵ của tỉnh là thành phố Đồng Hới. Nơi đây cũng là nơi
**BGM-109 Tomahawk** là loại tên lửa hành trình với nhiều biến thể, có khả năng mang đầu đạn hạt nhân, được phóng đi từ các hệ thống phóng mặt đất, chiến hạm hoặc tàu ngầm
**Boeing B-52 Stratofortress** () là máy bay ném bom hạng nặng phản lực được Không quân Hoa Kỳ (USAF) sử dụng từ năm Hàng không năm 1955, thay thế cho các kiểu Convair B-36 và
Khu vực đô thị **Newcastle** (/ ˈnjuːkɑːsəl /) là khu vực đông dân thứ hai ở bang New South Wales của Úc và bao gồm hầu hết các khu vực chính quyền địa phương của
Ngày **18 tháng 9** là ngày thứ 261 (262 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 104 ngày trong năm. ## Sự kiện * 96 – Sau khi Hoàng đế Domitianus bị ám sát, Thượng
**Virginia** (phát âm tiếng Việt: Vơ-gin-ni-a; phát âm tiếng Anh: ), tên chính thức là **Thịnh vượng chung Virginia** (), là một bang nằm tại khu vực Nam Đại Tây Dương của Hợp chúng quốc
thumbnail|Đại tướng [[Hans von Seeckt, Lãnh đạo Reichswehr cùng với bộ binh trong một cuộc diễn tập của Reichswehr ở Thuringia, 1926]] thumb|Màu [[ngụy trang dành cho lều trại của quân Đức, được giới thiệu
**Công viên St. James** (gọi tắt của Thánh James - _Saint James Park_) là một trong những Công viên Hoàng gia thuộc thành phố Westminster của trung tâm Luân Đôn. Công viên nằm vị trí
**Viên** (phiên âm theo tên tiếng Pháp: _Vienne_) hay **Wien** (tên gốc tiếng Đức, ; tiếng Bavaria: _Wean_) là thủ đô liên bang của Cộng hòa Áo, đồng thời là thành phố lớn nhất, và
Nước Đại Việt dưới **triều đại Tây Sơn**, có **quan hệ ngoại giao** với các nước Xiêm La và Trung Quốc ở triều Mãn Thanh. Nguyễn Huệ - tức Hoàng Đế Quang Trung - là
**Linz** (; ; ) là thành phố thủ phủ của Thượng Áo và là thành phố lớn thứ ba ở Áo. Nó nằm ở phía bắc đất nước Áo, trên sông Danube cách biên giới
**Erich Alfred Hartmann** (19 tháng 4 năm 1922 – 20 tháng 9 năm 1993), biệt danh "_Bubi_" (tên viết tắt của "chàng trai trẻ") bởi những đồng đội của mình hay "_Con quỷ đen_" bởi
**Uzbekistan** (phiên âm tiếng Việt: _"U-dơ-bê-ki-xtan"_), tên chính thức **Cộng hòa Uzbekistan** (tiếng Uzbek: _O‘zbekiston Respublikasi_), là một quốc gia nằm kín trong lục địa tại Trung Á, trước kia từng là một phần của
**Chiến dịch Đường 9 – Khe Sanh** còn được gọi là **"Chiến dịch Đường 9"** hay **"Trận Khe Sanh"**, là một chiến dịch chính yếu trong chiến cục năm 1968 tại Việt Nam. Các tài
**C** là một ngôn ngữ mệnh lệnh được phát triển từ đầu thập niên 1970 bởi Dennis Ritchie để dùng trong hệ điều hành UNIX. Từ đó, ngôn ngữ này đã lan rộng ra nhiều
**Chiến dịch Debrecen** (6 tháng 10 - 28 tháng 10 năm 1944) là một chiến dịch tấn công do Hồng quân Liên Xô và quân đội România tổ chức nhằm tấn công quân đội Đức
**Bạc Liêu** là một tỉnh cũ ven biển thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long, nằm trên bán đảo Cà Mau, miền đất cực nam của Việt Nam. ## Nguồn gốc tên gọi Tỉnh Bạc