✨Mogami (lớp tàu tuần dương)

Mogami (lớp tàu tuần dương)

Lớp tàu tuần dương _Mogami_ (tiếng Nhật: 最上型巡洋艦, Mogami-gata junyōkan) là một lớp tàu tuần dương hạng nặng bao gồm bốn chiếc của Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào giữa những năm 1930. Thoạt tiên được thiết kế như những tàu tuần dương hạng nhẹ theo như giới hạn mà Hiệp ước Hải quân Washington đặt ra, chúng được cải biến rộng rãi vào cuối những năm 1930 thành những tàu tuần dương hạng nặng. Cả bốn chiếc trong lớp đều tham gia Chiến tranh Thế giới thứ hai và đều bị đánh chìm trước khi chiến tranh kết thúc.

Mô tả

Trong Chương trình Tăng cường Hạm đội năm 1931, tin rằng đang bị thiếu hụt lực lượng tàu tuần dương, Hải quân Nhật quyết định chế tạo theo hạn ngạch tối đa mà Hiệp ước Hải quân Washington cho phép. Điều này đã đưa đến việc lựa chọn cho lớp Mogami cỡ pháo 155 mm (6,1 inch) bố trí trên năm tháp pháo ba nòng (lần đầu tiên tại Nhật Bản) có góc nâng lên đến 55°, làm cho Mogami trở thành một trong những lớp tàu tuần dương hiếm hoi trang bị dàn pháo chính đa dụng (bắn mục tiêu mặt đất lẫn trên không); phối hợp cùng với sự bảo vệ bằng hỏa lực pháo phòng không rất mạnh cùng với những ống phóng ngư lôi tiêu chuẩn đặt trên bệ xoay nạp lại được, vốn cũng là đặc tính độc đáo riêng của Hải quân Nhật.

Để hạn chế trọng lượng, kỹ thuật hàn điện được áp dụng cũng như sử dụng nhôm trong cấu trúc thượng tầng. Nhằm mục đích đáp ứng những giới hạn về trọng lượng cho tàu tuần dương hạng nhẹ, chúng chỉ được trang bị mười nồi hơi (so với 12 nồi hơi trang bị cho những lớp TakaoMyoko trước đó), nối vào một ống khói duy nhất. Kiểu động cơ turbine hộp số mới bổ sung thêm công suất 22.000 mã lực so với lớp Takao, giúp gia tăng tốc độ tối đa thêm 2,8 km/h (1,5 knot). Tuy vậy, sự bảo vệ không bị giới hạn, khi những tàu chiến trong lớp có thể chịu đựng được những tổn hại đáng kể.

Nhưng những nhà thiết kế đã dồn nén quá mức tải trọng con tàu. Trọng lượng bên trên quá nặng dẫn đến sự mất ổn định, và việc bắn pháo thử nghiệm gây nứt các mối hàn. Các tấm đắp thêm được bổ sung trên thân những chiếc MogamiMikuma, và được bổ sung vào thiết kế của KumanoSuzuya, khiến chiều ngang thân tàu tăng lên 19,2 m (63 ft) và lượng rẽ nước đến 11.200 tấn, làm giảm bớt tốc độ tối đa 3,7 km/h (2 knot).

Bắt đầu từ năm 1939, những chiếc trong lớp được cho tái cấu trúc một cách đang kể, thay thế các tháp pháo ba nòng 155 mm bằng những tháp pháo 203 mm (8 inch) nòng đôi, chuyển các khẩu pháo 155 mm nguyên thủy của chúng sang trang bị cho siêu thiết giáp hạm Yamato. Thực ra, các nhà thiết kế đã vẽ kiểu con tàu với ý định trong đầu sẽ chuyển các khẩu pháo 155 mm (6 inch) sang cỡ 203 mm (8 inch), nhằm mục đích biến chúng thành các tàu tuần dương hạng nặng và lách qua những giới hạn của Hiệp ước Hải quân London. Các đai giáp chống ngư lôi cũng được bổ sung. Nói chung, lượng rẽ nước của lớp tàu bị tăng lên trên 13.000 tấn, và tốc độ tối đa bị giảm còn 63,8 km/h (34,5 knot).

Lịch sử hoạt động

Vào tháng 6 năm 1942, cả bốn chiếc trong lớp đều tham gia vào trận Midway, nơi mà MogamiMikuma va chạm với nhau khi đang cố tránh một cuộc tấn công của tàu ngầm. Mikuma bị tiêu diệt vào ngày 6 tháng 6 năm 1942 khi bị máy bay từ các tàu sân bay EnterpriseHornet tấn công; trong khi chiếc Mogami hư hỏng nặng đã lê lết được về vùng biển nhà và phải trải qua mười tháng trong ụ tàu, khi phần phía sau của nó được cấu trúc lại toàn bộ, các tháp pháo "X" và "Y" của nó được tháo dỡ thay thế bằng một sàn đáp với dự định mang theo 11 máy bay.

Vào tháng 10 năm 1944, những chiếc còn lại trong lớp hội ngộ với nhau trong trận chiến vịnh Leyte. Mogami bị hư hại nặng do va chạm với tàu tuần dương Nachi, hỏa lực pháo và không kích của đối phương, và cuối cùng bị đánh đắm bởi tàu khu trục Akebono; trong khi Kumano rút lui về cảng Manila chỉ với một nồi hơi trước khi bị các phi công của Đô đốc Halsey vô hiệu hóa vào ngày 25 tháng 11 năm 1944; họ cũng phá hỏng chiếc Suzuya cùng ngày hôm đó, và chiếc cuối cùng còn lại trong lớp bị tàu khu trục Okinami đánh đắm vào ngày 27 tháng 11.

Những phê phán về thiết kế

Lớp tàu này được các chuyên gia thiết kế hàng hải cho là dồn ép quá nhiều tính năng vào một khuôn khổ hạn chế. Bộ tham mưu Hải quân Nhật nhấn mạnh rằng mỗi lớp tàu mới phải vượt trội hơn mọi thứ khác trong hạng của nó, và đã đặt một gánh nặng lớn lên các nhà thiết kế và chế tạo hải quân Nhật. Những khó khăn xảy ra đối với lớp tàu Mogami có thể được giải thích theo quan điểm này.

Cấu trúc chế tạo ban đầu của con tàu khá nhẹ để tuân thủ các hiệp ước hải quân và phải được bù đắp. Khi Giám đốc Chế tạo của Hải quân Hoàng gia Anh được Cơ quan Tình báo Hải quân Anh thông báo về lớp tàu này, có trích dẫn những thông tin về trọng lượng rẽ nước, ông đã trả lời rằng những tính năng này không thể đạt được với lượng rẽ nước như thế, và “họ phải chế tạo con tàu bằng các-tông, hoặc đã nói dối”.

Cho dù việc sắp xếp tháp pháo số 3 cải thiện được góc bắn, và khắc phục được vấn đề bất ổn định (lớp Takao trước đó được xem là có cấu trúc bên trên quá nặng), những chiếc trong lớp Mogami nói chung được xem không cải thiện được gì nhiều so với lớp Takao. Dù sao, lớp Tone tiếp theo sau đã giữ lại một số đặc tính trong thiết kế của lớp Mogami. Tuy nhiên, những chiếc trong lớp Tone lại được dự tính cho một mục đích khác biệt, khi tất cả các khẩu pháo chính đều được bố trí hướng ra phía trước, dành toàn bộ khoảng sàn tàu phía sau chứa thêm nhiều chiếc thủy phi cơ.

Những chiếc trong lớp

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lớp tàu tuần dương _Mogami**_ (tiếng Nhật: 最上型巡洋艦, Mogami-gata junyōkan) là một lớp tàu tuần dương hạng nặng bao gồm bốn chiếc của Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào giữa những năm 1930. Thoạt
**Lớp tàu tuần dương _Tone**_ (tiếng Nhật: 利根型巡洋艦, Tone-gata junyōkan) là lớp tàu tuần dương hạng nặng cuối cùng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Hai chiếc tàu chiến trong lớp đã tham gia
_Lớp tàu tuần dương **Takao**_ (tiếng Nhật: 高雄型巡洋艦, Takao-gata junyōkan) là một lớp bao gồm bốn tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được hạ thủy trong những năm 1930
**Lớp tàu tuần dương _La Galissonnière**_ là một nhóm sáu tàu tuần dương hạng nhẹ được đưa vào hoạt động cùng Hải quân Pháp trong những năm 1930. Chúng là những tàu tuần dương Pháp
**Lớp tàu tuần dương _Brooklyn**_ bao gồm chín chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Hoa Kỳ đã phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Được trang bị năm tháp pháo
**Lớp tàu tuần dương Town** là một lớp tàu tuần dương hạng nhẹ bao gồm 10 chiếc được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Lớp tàu
**_Natori_** (tiếng Nhật: 名取) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Nagara_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Tên của nó được đặt theo sông Kinu trong tỉnh Tochigi của Nhật Bản.
**_Noshiro_** (tiếng Nhật: 能代) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Agano_ đã phục vụ cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó bị máy bay
**_ Kinu_** (tiếng Nhật: 鬼怒) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Nagara_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Tên của nó được đặt theo sông Kinu trong tỉnh Tochigi của Nhật
**_Yura_** (tiếng Nhật: 由良) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Nagara_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Tên của nó được đặt theo sông Yura gần Kyoto của Nhật Bản. Nó
là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm bốn chiếc. Tên của nó được đặt theo con sông Mogami
**_Ibuki_** (tiếng Nhật: 伊吹) là chiếc tàu tuần dương hạng nặng cuối cùng được đặt tên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Được đặt lườn vào năm 1942 và hạ thủy vào năm 1943,
**_Chikuma_** (tiếng Nhật: 筑摩) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ hai trong lớp _Tone_ vốn chỉ có hai chiếc. Tên của nó được đặt
Tàu tuần dương hạng nặng [[HMS Frobisher (D81)|HMS _Frobisher_ thuộc lớp _Hawkins_, vào khoảng thời gian mà Hiệp ước Hải quân Washington đặt ra những giới hạn cho tàu tuần dương hạng nặng.]] **Tàu tuần
**_Ōyodo_** (tiếng Nhật: 大淀), là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc duy nhất trong lớp của nó. Tên của nó được đặt theo sông Ōyodo tại
**_Tone_** (tiếng Nhật: 利根) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó vốn bao gồm cả chiếc _Chikuma_. Tên của nó
**_Mikuma_** (tiếng Nhật: 三隈) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ hai trong tổng số bốn chiếc thuộc lớp _Mogami_. Tên của nó được đặt
**Suzuya** (tiếng Nhật: 鈴谷 S_uzuya_) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ ba trong tổng số bốn chiếc thuộc lớp _Mogami_. Tên của nó được
**_Kumano_** (tiếng Nhật: 熊野) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc cuối cùng trong tổng số bốn chiếc thuộc lớp _Mogami_. _Kumano_ từng hoạt động trong
**_Myōkō_** (tiếng Nhật: 妙高) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm bốn chiếc; những chiếc còn lại trong
**_Ashigara_** (tiếng Nhật: 足柄) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp _Myōkō_ bao gồm bốn chiếc; những chiếc còn lại trong lớp này là _Myōkō_, _Nachi_
**HMS _Liverpool_ (C11)**, tên được đặt theo thành phố cảng Liverpool phía Tây Bắc nước Anh, là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp Town của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc đã phục
**_Fubuki_** (tiếng Nhật: 吹雪) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu của lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn chiếc được chế tạo sau
là một trong bốn tàu thuộc lớp tàu phóng lôi Chidori của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó bị lật trong một cơn bão vào ngày 12 tháng 3 năm 1934, ngay sau khi
nhỏ|phải|Một tấm ảnh khác về tàu khu trục _Uranami_ **_Uranami_** (tiếng Nhật: 浦波) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn
**_Ayanami_** (tiếng Nhật: 綾波) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn chiếc, được chế tạo sau khi Chiến tranh Thế
**_Hatsuyuki_** (tiếng Nhật: 初雪) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn chiếc, được chế tạo sau khi Chiến tranh Thế
**_Amagiri_** (tiếng Nhật: 天霧) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn chiếc, được chế tạo sau khi Chiến tranh Thế
**_Akebono_** (tiếng Nhật: 曙) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn chiếc, được chế tạo sau khi Chiến tranh Thế
**_Asagiri_** (tiếng Nhật: 朝霧) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn chiếc, được chế tạo sau khi Chiến tranh Thế
**_Yūgiri_** (tiếng Nhật: 夕霧) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn chiếc, được chế tạo sau khi Chiến tranh Thế
**_Isonami_** (tiếng Nhật: 磯波) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn chiếc, được chế tạo sau khi Chiến tranh Thế
Đây là danh sách các tàu chiến thuộc Đế quốc Nhật Bản. ## Tàu chiến trung cổ * Atakebune, Tàu chiến cận bờ thế kỉ 16. * Châu Ấn Thuyền – Khoảng 350 tàu buồm
nhỏ|250x250px|Hàng không mẫu hạm lớn nhất thế giới. Nhân viên điều hành trên tháp quan sát của chiếc [[USS Ronald Reagan của Hoa Kỳ.|thế=]] **Tàu sân bay** (tiếng Anh: _aircraft carrier_), hay **hàng không mẫu
Tên tàu Nhật tuân theo các quy ước khác nhau từ những quy ước điển hình ở phương Tây. Tên tàu buôn thường chứa từ _maru_ ở cuối (nghĩa là _vòng tròn_), trong khi tàu
**USS _Heywood L. Edwards_ (DD-663)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải
**USS _Beale_ (DD-471/DDE-471)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
**USS _Bryant_ (DD-665)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**_Hatsuzuki_** (tiếng Nhật: 初月 - _Sơ Nguyệt)_ là một khu trục hạm lớp _Akizuki_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Là con tàu thứ tư của lớp _Akizuki_, _Hatsuzuki_ đã tham chiến tích cực
**Trận Midway** là một trận hải chiến quan trọng trong thế chiến thứ hai tại chiến trường Thái Bình Dương, diễn ra ngày từ ngày 4 tháng 6 – 7 tháng 6 năm 1942. Hai
**USS _Tennessee_ (BB-43)** là một thiết giáp hạm của Hải quân Hoa Kỳ trong Thế chiến II, là chiếc dẫn đầu trong lớp tàu của nó, và là chiếc tàu chiến thứ ba của hải
**USS _Pennsylvania_ (BB-38)** là một thiết giáp hạm của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó thuộc thế hệ các thiết giáp hạm "siêu-dreadnought"; và là chiếc tàu chiến thứ
**USS _Manila Bay_ (CVE-61)** là một tàu sân bay hộ tống lớp _Casablanca_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai; tên nó được đặt theo vịnh Manila, Philippines,
**USS _Petrof Bay_ (CVE–80)** là một tàu sân bay hộ tống lớp _Casablanca_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên nó được đặt theo một vịnh nhỏ
Quân xưởng Hải quân Yokosuka, 1944-45 là một trong bốn nhà máy đóng tàu hải quân chủ lực được sở hữu và điều hành bởi Hải quân Đế quốc Nhật Bản, và được đặt tại
phải|nhỏ|343x343px| Các tàu tuần dương Nhật _Mogami_, _Mikuma_, _Kumano_ đều được đóng theo kế hoạch "Vòng tròn 1" , còn được biết đến với tên gọi **Kế hoạch Vòng tròn 1** là một trong bốn
phải|nhỏ|250x250px| Tàu tuần dương trinh sát [[Tone (tàu tuần dương Nhật)|Tone một trong những tàu được chấp thuận cho "Kế hoạch Maru-2"]] hay còn gọi là Kế hoạch "Vòng tròn hai" là kế hoạch thứ
**Lực lượng Phòng vệ Biển Nhật Bản** (tiếng Nhật: ), lược xưng là là một trong ba quân chủng thuộc Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản. Sau năm 1945, Lục quân Đế quốc Nhật Bản
**Thám tử Kindaichi** (tên tiếng Nhật là 金田一少年の事件簿, _Kindaichi Shōnen no Jikenbo_; tiếng Anh là _Kindaichi Case Files_ hay _Detective Kindaichi_) là một trong những bộ truyện manga bí ẩn của Nhật Bản nói về