✨Ise (lớp thiết giáp hạm)

Ise (lớp thiết giáp hạm)

Lớp thiết giáp hạm _Ise_ (tiếng Nhật: 伊勢型戦艦; Ise-gata senkan) là một lớp thiết giáp hạm bao gồm hai chiếc của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Được xem là lạc hậu vào giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai, chúng được cải tạo thành những tàu sân bay lai để bù đắp sự thiếu hụt tàu sân bay sau trận Midway. Cả hai chiếc đều bị hư hại nặng trong Trận chiến vịnh Leyte rồi bị đánh chìm tại vùng nước nông ở chính quốc trước khi chiến tranh kết thúc.

Thiết kế và chế tạo

Thoạt đầu được dự định như những tàu chị em của lớp Fusō, những cải tiến trong thiết kế làm cho chúng khác biệt đến mức được xem là một lớp tàu riêng biệt.

Những sự khác biệt bao gồm một sàn tàu phía trước ngắn hơn, giàn hỏa lực pháo hạng hai được bố trí chặt chẽ hơn (với hầu hết các khẩu pháo phía trước được đặt lui hơn về phía sau so với lớp Fusō), sự sắp xếp khác biệt các tháp pháo chính (cho dù cách bố trí sáu tháp pháo đôi cồng kềnh vẫn được giữ lại), và sự bố trí các ống khói và lỗ hút gió gọn gàng hơn. Giống như hầu hết những chiếc thiết giáp hạm vào thời đó, chúng giữ lại kiểu tháp súng giàn hỏa lực hạng hai vốn nhanh chóng trở nên lạc hậu, và các khẩu pháo phía trước thường tỏ ra vô dụng khi đi biển. Giống như hầu hết tàu chiến Nhật vào thời đó, chúng còn phụ thuộc vào các nồi hơi đốt bằng nhiên liệu hỗn hợp dầu-than.

Chúng được cấu trúc lại đáng kể trong những năm 1930, được cải tiến hệ thống động cơ, vỏ giáp, hệ thống kiểm soát hỏa lực và việc bảo vệ bên trong. Tuy vậy, trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, giống như các tàu chiến họ hàng thuộc lớp Fusō, những chiếc Ise không tham gia vào chiến dịch đáng kể nào do sự lạc hậu và tốc độ chậm. Hầu như dư thừa đối với Hải quân Đế quốc Nhật Bản, chúng trải qua hầu hết thời gian làm nhiệm vụ huấn luyện trong vùng biển nội địa Nhật Bản, trong thành phần Hải đội Thiết giáp hạm 2.

Cải biến thành tàu sân bay

trái|nhỏ|Một bản vẽ sau chiến tranh của Mỹ mô tả lớp Ise như tàu sân bay lai thiết giáp hạm. Hai hình nhỏ bên trên mô tả các biến thể về cấu hình máy phóng. Trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, để bù đắp phần nào sự mất mát lực lượng tàu sân bay sau trận Midway, cả hai chiếc thiết giáp hạm trong lớp được cải biến một phần thành tàu sân bay lai thiết giáp hạm vào năm 1943. Những chiếc trong lớp Ise có ưu thế phần nào về tốc độ so với lớp Fusō nên chúng được chọn; và cũng vì một vụ nổ tháp súng của chiếc Hyūga chưa được sửa chữa.

Các tháp pháo phía sau được thay thế bởi một sàn chứa máy bay và bên trên là một sàn đáp, đồng thời các khẩu đội phòng không cũng được bổ sung. Ví dụ như Hyūga có thể mang theo 14 chiếc máy bay ném bom bổ nhào Yokosuka D4Y và 8 chiếc thủy phi cơ Aichi E16A. Tuy nhiên, tình trạng thiếu hụt máy bay và phi công đã khiến cho cả hai con tàu chưa bao giờ tham gia tác chiến trong vai trò tàu sân bay. Cả hai chiếc đều bị hư hại trong Trận chiến mũi Engaño ngày 25 tháng 10 năm 1944.

Những chiếc tàu chiến quay trở lại ụ tàu hải quân ở Kure để sửa chữa, và không còn tham gia bất kỳ chiến dịch nào khác. Chúng bị máy bay Mỹ tấn công trong nhiều đợt khác nhau, và bị đánh chìm tại nơi neo đậu trong vùng nước nông.

Những chiếc trong lớp

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lớp thiết giáp hạm _Ise**_ (tiếng Nhật: 伊勢型戦艦; Ise-gata senkan) là một lớp thiết giáp hạm bao gồm hai chiếc của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh
**Lớp thiết giáp hạm _Nagato**_ (tiếng Nhật: 長門型戦艦; Rōmaji: _Nagato-gata senkan_; phiên âm Hán-Việt: _Trường Môn hình chiến hạm_) bao gồm hai thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản hoạt động từ
**_Ise_** (), là chiếc dẫn đầu của lớp _Ise_ gồm hai chiếc thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, từng tham gia hoạt động tại mặt trận Thái Bình Dương trong Thế
nhỏ|350x350px|_Yamato_ và _Musashi_, hai [[thiết giáp hạm lớn nhất từng được xây dựng.]] Vào cuối thế kỷ 19, chiến lược của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được dựa trên triết lý hải quân Jeune
**_Hyūga_** (tiếng Nhật: 日向), được đặt tên theo tỉnh Hyūga trên đảo Kyūshū, là một thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp _Ise_. ## Thiết kế và chế tạo _Hyūga_
## Lớp thiết giáp hạm (Tạm ngưng sản xuất) Hầu hết ở thời điểm này đều gần như không có _Lớp thiết giáp hạm_ nào được sản xuất, Đây là danh sách các _Thiết giáp
**Tàu khu trục lớp Hyūga** (tiếng Nhật: ひゅうが型護衛艦) llà lớp tàu khu trục mang máy bay trực thăng (DDH) thuộc biên chế của Lực lược Phòng vệ trên biển Nhật Bản. Tên của lớp tàu
là một trong những lớp khu trục hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản (IJN) sau năm 1942. Hải quân Nhật xếp loại lớp Akizuki là và được thiếc kế để chống máy bay,
**USS _West Virginia_ (BB-48)** (tên lóng "Wee Vee"), là một thiết giáp hạm thuộc lớp _Colorado_, và là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này nhằm tôn
**Lớp tàu khu trục _Momo**_ (tiếng Nhật: 桃型駆逐艦 - Momogata kuchikukan) là một lớp bao gồm bốn tàu khu trục hạng nhì của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được chế tạo trong giai đoạn
**Lớp tàu khu trục _Isokaze**_ (tiếng Nhật: 磯風型駆逐艦 - Isokazegata kuchikukan) là một lớp bao gồm bốn tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được chế tạo trong giai đoạn
**** là một chiến lược hải quân nhằm định hướng sự phát triển của Hải quân Đế quốc Nhật Bản cho giai đoạn đầu thế kỷ 20. Chiến lược này yêu cầu Hải quân Nhật
** JDS Ise DDH-182** là một tàu khu trục thuộc lớp tàu khu trục mang máy bay trực thăng Hyūga của Lực lượng Tự vệ Biển Nhật Bản (JMSDF). Đây là con tàu thứ 2
**_Hatsushimo_** (tiếng Nhật: 初霜) là một tàu khu trục hạng nhất thuộc lớp _Hatsuharu_ bao gồm sáu chiếc của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, được chế tạo trong những năm 1931-1933. _Hatsushimo_ đã tham
**_Nokaze_** (tiếng Nhật: 野風) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được chế tạo ngay sau khi kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ nhất, là chiếc dẫn
**_Tama_** (tiếng Nhật: 多摩) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Kuma_ từng hoạt động cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên của nó được
**_Kitakami_** (tiếng Nhật: 北上) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Kuma_ từng hoạt động cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên của nó được
**USS _Waldron_ (DD-699)** là một tàu khu trục lớp _Allen M. Sumner_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải
**_Isuzu_** (tiếng Nhật: 五十鈴) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Nagara_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Tên của nó được đặt theo sông Isuzu gần đền Ise thuộc khu vực
**Chiến dịch Gratitude**, hay còn được gọi là **Cuộc không kích** **ở** **Biển Đông,** là một chiến dịch không kích được tiến hành bởi Đệ Tam Hạm đội của Hải quân Hoa Kỳ trên Mặt
nhỏ|250x250px|Hàng không mẫu hạm lớn nhất thế giới. Nhân viên điều hành trên tháp quan sát của chiếc [[USS Ronald Reagan của Hoa Kỳ.|thế=]] **Tàu sân bay** (tiếng Anh: _aircraft carrier_), hay **hàng không mẫu
Đây là danh sách các tàu chiến thuộc Đế quốc Nhật Bản. ## Tàu chiến trung cổ * Atakebune, Tàu chiến cận bờ thế kỉ 16. * Châu Ấn Thuyền – Khoảng 350 tàu buồm
Khẩu **Vickers 14 inch 45 li** được thiết kế và chế tạo bởi Vickers và ban đầu được lắp đặt trên thiết giáp-tuần dương _Kongō _được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản.
**Lịch sử Nhật Bản** bao gồm lịch sử của quần đảo Nhật Bản và cư dân Nhật, trải dài lịch sử từ thời kỳ cổ đại tới hiện đại của quốc gia Nhật Bản. Các