✨Akizuki (lớp tàu khu trục) (1942)

Akizuki (lớp tàu khu trục) (1942)

là một trong những lớp khu trục hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản (IJN) sau năm 1942. Hải quân Nhật xếp loại lớp Akizuki là và được thiếc kế để chống máy bay, tàu ngầm và các loại tàu nhỏ hơn (tàu phóng lôi,v.v.). Lớp Akizuki được coi là lớp khu trục hữu dụng nhất được Hải quân Đế quốc Nhật Bản sử dung trong Thế chiến thứ 2.

Thiết kế

Các tàu lớp Akizuki ban đầu được thiết kế làm tàu hộ tống phòng không cho các nhóm tác chiến hàng không mẫu hạm của Nhật, nhưng đã được sửa đổi thêm ống phóng ngư lôi và mìn sâu để đáp ứng nhu cầu cho tàu khu trục đa năng hơn. Thủy thủ đoàn của mỗi tàu bao gồm 300 sĩ quan và thủy thủ. Các tàu dài tổng thể, với ngang và có đáy cao . Chúng có mức choán nước đạt ở mức tải tiêu chuẩn và ở mức đầy tải.

Lớp Akizuki sử dụng hai tua bin hơi nước Kampon, mỗi tua bin quay một cánh quạt trục, và hơi nước được cung cấp bởi bốn nồi hơi Kampon. Tua bin có mức công suất tối đa 52.000 mã lực (39.000 kW), giúp con tàu đạt tốc độ cao nhất là 33 hải lý trên giờ (61 km/h; 38 mph). Con tàu có thể chở tới 1.097 tấn Anh (1.115 t) dầu nhiên liệu với tầm hoạt động khoảng 8.300 hải lý (15.400 km; 9.600 mi) ở vận tốc 18 hải lý trên giờ (33 km/h; 21 mph).

Lớp Akizuki được trang bị tám pháo đa dụng 100mm Kiểu 98 được đặt trong bốn tháp pháo đôi, hai tháp được đặt ở khu vực mũi tàu và hai tháp còn lại đặt cuối cấu trúc thượng tầng. Không như hệ thống pháo được trang bị cho lớp Kagerō trước đó, đây là một trong những loại pháo hiện đại nhất của Hải quân Nhật, có đột tin cậy cao, tốc độ bắn nhanh và góc bắn lớn. Hệ thống pháo này được dẫn bắn bởi hai hệ thống kiểm soát hỏa lực Kiểu 94, một chiếc được đặt trên nóc đài chỉ huy và một chiếc đặt ở cuối cấu trúc thượng tầng. Tuy nhiên, do sự thiếu hụt về trang bị. năm chiếc cuối cùng của lớp không được lắp hệ thống Kiểu 94 ở cuối tàu, thay vào đó, chúng được trang bị 1 Pháo cao xạ Kiểu 96 3 nòng và thêm 2 pháo cao xạ Kiểu 96 2 nòng. Ngoài ra mỗi tàu được trang bị bốn khẩu pháo phòng không 25mm Kiểu 96 hai nòng và bốn ống phóng ngư lôi 610 mm (24,0 in) được đặt trong một máy phóng duy nhất, kèm theo máy nạp cho mỗi ống. Vũ khí chống tàu ngầm bao gồm sáu máy phóng mìn sâu với tổng cộng 72 quả..

Lớp Akizuki cũng là một trong những lớp tàu chiến đầu tiên được lắp đặt Radar cảnh giới bầu trời Kiểu 21, chỉ duy nhất 2 chiếc AkizukiTeruzuki là không được trang bị. Những con tàu phục vụ trong giai đoạn 1944 đều được lắp đặt thêm Radar cảnh giới bầu trời Kiểu 13, và 5 chiếc cuối cùng của lớp được lắp đặt Radar cảnh giới bầu trời Kiểu 22 thay cho Radar Kiểu 21.

Về cuối cuộc chiến, số lượng pháo cao xạ Kiểu 96 được lắp đặt cho lớp Akizuki tăng dần lên. Trong giai đoạn năm 1942-1943, toàn bộ pháo 2 nòng được thay bằng pháo 3 nòng, và 2 pháo 3 nòng được lắp bổ sung ở hai bên ống khói. Từ cuối năm 1944 tới đầu năm 1945, những chiếc còn sống sót được lắp đặt thêm 1 pháo 3 nòng ở trước đài chỉ huy, và 24 pháo 1 nòng khác được bổ sung dọc con tàu, tăng số lượng pháo Kiểu 96 của mỗi chiếc lên đến 41 khẩu.

Sơ bộ lịch sử hoạt động

Sáu tàu trong lớp này được đặt hàng theo Chương trình Mở rộng Trang bị Hải quân lần 4 (Maru 4 Programme) vào năm 1939. Mười tàu nữa được đặt trong Chương trình Mở rộng Trang bị Hải quân Cấp tốc (Maru Kyū Keikaku) vào năm 1941 nhưng chỉ một tàu được đặt lườn trước khi tất cả các tàu bị hủy bỏ để thay bằng lớp FuyutsukiMichitsuki nhằm giảm thiểu thời gian sản xuất.

16 tàu (từ #770 tới #785) của một phiên bản sửa đổi nữa được đặt theo Chương trình Mở rộng Trang bị Hải quân lần 5 (Maru Tsui Keikaku) vào năm 1942 với 23 chiếc nữa (từ #5061 tới #5083) được tính sẽ được đặt trong trương trình tiếp theo. Tất cả đều bị hủy trước khi việc đóng tàu có thể bắt đầu.

Chỉ sáu tàu sống sót qua chiến tranh, bốn chiếc trong số đó được dùng làm chiến lợi phẩm cho các nước thắng trận.

Các tàu trong lớp

Phân lớp Akizuki

Dự án số F51A. Phiên bản chính của lớp Akizuki. Bảy chiếc được đóng theo Chương trình Mở rộng Trang bị Hải quân lần 4 (#104 tới #109) và Chương trình Mở rộng Trang bị Hải quân Cấp tốc (#360).

Phân lớp Fuyutsuki

Dự án số F51B. Phân lớp Fuyutsuki ban đầu được dự tính sẽ đóng như phân lớp Akizuki nhưng việc đóng tàu cuối cùng phải được đơn giản hoá. 4 chiếc được đóng theo Chương trình Mở rộng Trang bị Hải quân Cấp tốc (#361 tới #364). So với dòng Akizuki chính, các chiếc Fuyutsuki có thiết kế mũi tàu đơn giản hơn, tháo cabin ở đuôi tàu và gắm vào cửa dẫn khí hai chiều cho các lò hơi. Chưa hài lòng với các sửa đổi trên, Hải quân Nhât tiếp tục đưa thêm điều chình nữa vào thiết kế dẫn đến phân lớp Michitsuki.

Phân lớp Michitsuki

Dự án số F53. Phiên bản sản xuất cuối cùng của lớp Akizuki. Tĩnh giản hơn so với lớp Fuyutsuki. Chuyển thể từ 5 chiếc trong Chương trình Mở rộng Trang bị Hải quân Cấp tốc (#365 tới #369) và 16 chiếc từ theo Chương trình Mở rộng Trang bị Hải quân lần 5 (#770 tới #785 được đặt lại thành #5061 tới #5076). Chỉ có 1 chiếc được hoàn thành.

Chou-Akizuki

Dự án số V7. Phiên bản tốc độ cao của lớp Akizuki. Dự án bị hủy bỏ khi Hải quân Đế quốc Nhật Bản liên tục gặp thất bại trên chiến trường.

Ảnh

Tập tin:IJN Hatsuzuki 1942.jpg|_Hatsuzuki_ chạy thử nghiệm, tháng 12 năm 1942. Tập tin:Fuyuzuki.jpg|_Fuyutsuki_ chạy thử nghiệm, 23 tháng 5 năm 1944. Tập tin:Harutuki.jpg|_Harutsuki_ chạy thử nghiệm, tháng 12 năm 1944. Tập tin:Hanazuki.jpg|_Hanazuki_ 18 tháng 12 năm 1944. Tập tin:Japanese destroyer Akizuki 1942.jpg|_Akizuki_ ngoài khơi vịnh Empress Augusta, 29 tháng 9 năm 1942. Tập tin:IJN 1st Mobile Fleet under attack 20-June-1944.jpg|Hàng không mẫn hạm _Zuikaku_ và bốn chiếc _Akizuki_ (_Akizuki_, _Hatsuzuki_, _Wakatsuki_ và _Shimotsuki_) trong Trận chiến biển Philippine on 20 tháng 6 năm 1944. Tập tin:Cape Engano II.jpg|Hàng không mẫn hạm _Zuikaku_, _Zuihō_ và khu trục _Wakatsuki_ giữa Trận chiến ngoài khơi mũi Engaño, 25 tháng 10 năm 1944. Tập tin:Japanese battleship Ise and destroyer Shimotsuki 1944.jpg|Hàng không hạm _Chitose_, thiết giáp hạm _Ise_ và khu trục _Shimotsuki_ giữa Trận chiến ngoài khơi mũi Engaño, 25 tháng 10 năm 1944. Tập tin:Japanese destroyer Akizuki in 1944.jpg|Khu trục _Akizuki_, _Kuwa_ and Thiết giáp _Ise_ trong the trận chiến ngoài khơi mũi Engaño 25 tháng 10 năm 1944. Tập tin:Japanese destroyer Wakatsuki in 1944.jpg|_Wakatsuki_ trong trận vịnh Ormoc, 11 tháng 11 năm 1944. Tập tin:Japanese battleship Yamato and a destroyer in action with U.S. Navy carrier planes north of Okinawa on 7 April 1945 (80-G-313714).jpg|Thiết giáp hạm _Yamato_ và _Fuyutsuki_ trong Chiến dịch Ten-Go, 7 tháng 4 năm 1945. Tập tin:Japanese destroyer Suzutsuki under attack 1945.jpg|_Suzutsuki_ trong Chiến dịch Ten-Go, 7 tháng 4 năm 1945. Tập tin:IJN Yoizuki-1946.jpg|_Yoizuki_ với vai trò vận truyển lính Nhật về nước, 1946. Tập tin:Japanese destroyer Michitsuki in 1947.jpg|_Michitsuki_, tháng 5 năm 1947. Tập tin:ROCS FenYang.jpg|ROCS _Phần Giang_ (cựu _Yoizuki_).

Xem

Danh sách tàu trong Chiến tranh Thế giới thứ hai Danh sách lớp tàu chiến trong Chiến tranh Thế giới thứ hai

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
là một trong những lớp khu trục hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản (IJN) sau năm 1942. Hải quân Nhật xếp loại lớp Akizuki là và được thiếc kế để chống máy bay,
là tàu khu trục lớp Akizuki của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Tên nó ấy có nghĩa là "Trăng Non". ## Thiết kế và mô tả Các _tàu_ lớp _Akizuki_ ban đầu được thiết
**_Hatsuzuki_** (tiếng Nhật: 初月 - _Sơ Nguyệt)_ là một khu trục hạm lớp _Akizuki_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Là con tàu thứ tư của lớp _Akizuki_, _Hatsuzuki_ đã tham chiến tích cực
**_Nagara_** (tiếng Nhật: 長良) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó. Tên của nó được đặt theo tên sông Nagara
**_Yura_** (tiếng Nhật: 由良) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Nagara_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Tên của nó được đặt theo sông Yura gần Kyoto của Nhật Bản. Nó
**_Yahagi_** (tiếng Nhật: 矢矧) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Agano_ đã phục vụ cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. _Yahagi_ đã bị máy
**_Ōyodo_** (tiếng Nhật: 大淀), là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc duy nhất trong lớp của nó. Tên của nó được đặt theo sông Ōyodo tại
Đây là danh sách các tàu chiến thuộc Đế quốc Nhật Bản. ## Tàu chiến trung cổ * Atakebune, Tàu chiến cận bờ thế kỉ 16. * Châu Ấn Thuyền – Khoảng 350 tàu buồm
Tên tàu Nhật tuân theo các quy ước khác nhau từ những quy ước điển hình ở phương Tây. Tên tàu buôn thường chứa từ _maru_ ở cuối (nghĩa là _vòng tròn_), trong khi tàu
**Trận hải chiến ở quần đảo Santa Cruz** vào ngày 26 tháng 10 năm 1942, người Nhật Bản thường gọi là **Minami Taiheiyou Kaisen** (南太平洋海戦, みなみたいへいようかいせん) là trận hải chiến thứ tư giữa các tàu
**_Ise_** (), là chiếc dẫn đầu của lớp _Ise_ gồm hai chiếc thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, từng tham gia hoạt động tại mặt trận Thái Bình Dương trong Thế
thumb|Quân xưởng Hải quân Maizuru, 1945 là một trong bốn nhà máy đóng tàu hải quân chính được sở hữu và điều hành bởi Hải quân Đế quốc Nhật Bản. ## Lịch sử nhỏ|Tàu khu
thumb|Quân xưởng Hải quân Kure, 1945 là một trong bốn nhà máy đóng tàu hải quân chính được sở hữu và điều hành bởi Hải quân Đế quốc Nhật Bản. ## Lịch sử thumb|Thiết giáp