✨I-166 (tàu ngầm Nhật)

I-166 (tàu ngầm Nhật)

I-66, sau đổi tên thành I-166, là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai V nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1932. Nó đã phục vụ trong suốt Chiến tranh Thế giới thứ hai, hỗ trợ cho chiến dịch xâm chiếm Malaya và Đông Ấn thuộc Hà Lan, tham gia Trận Midway, cũng như thực hiện nhiều chuyến tuần tra trong Ấn Độ Dương trước khi bị tàu ngầm Anh đánh chìm vào ngày 17 tháng 7, 1944.

Thiết kế và chế tạo

Thiết kế

Phân lớp tàu ngầm Kaidai V là phiên bản được cải tiến từ phân lớp Kaidai IV dẫn trước. Chúng có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn, lườn tàu có chiều dài , mạn tàu rộng và mớn nước sâu . Con tàu có thể lặn sâu và có một thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 75 sĩ quan và thủy thủ.

Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel , mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn, mỗi trục được vận hành bởi một động cơ điện . Con tàu có thể đạt tốc độ tối đa khi nổi và khi lặn. Khi Kaidai V di chuyển trên mặt nước nó đạt tầm xa hoạt động ở tốc độ , và có thể lặn xa ở tốc độ .

Lớp Kaidai V có sáu ống phóng ngư lôi , gồm bốn ống trước mũi và hai ống phía đuôi, và mang tổng cộng 14 ngư lôi. Hải pháo trên boong tàu được nâng cấp lên kiểu /50 caliber lưỡng dụng, Nó được hạ thủy vào ngày 2 tháng 6, 1931, Sau khi hoàn tất, cả chín chiếc tàu ngầm đều quay về Sasebo, Nhật Bản vào ngày 5 tháng 10, 1934. Hơn một năm sau đó, trong một đợt thực hành cơ động, nó mắc tai nạn va chạm với tàu ngầm I-7 trong vịnh Saeki vào sáng sớm ngày 21 tháng 10, 1941, Nó khởi hành từ vịnh Cam Ranh vào ngày 5 tháng 1, 1942 cho chuyến tuần tra thứ hai Lúc đang trên đường đi, nó được đổi tên thành I-166 vào ngày 20 tháng 5, Hải quân Nhật Bản chịu đựng một thất bại lớn vào ngày 4 tháng 6 trong trận Midway, đúng vào ngày Tư lệnh Đệ Lục hạm đội, Phó đô đốc Komatsu Teruhisa, ra lệnh cho các tàu ngầm trong tuyến tuần tra tiến sang phía Tây.

Sau khi Đô đốc Yamamoto Isoroku, Tổng tư lệnh Hạm đội Liên hợp, ra lệnh cho Komatsu bố trí các tàu ngầm dưới quyền xen giữa hạm đội Nhật Bản đang rút lui và các tàu sân bay Hoa Kỳ, các tàu ngầm bắt đầu rút lui dần về hướng Tây Bắc, di chuyển ngầm với tốc độ vào ban ngày và khi trời tối. I-166 không bắt gặp mục tiêu nào trong suốt trận chiến, và về đến Sasebo vào ngày 26 tháng 6. Tại đây chiếc tàu ngầm được đại tu, và trong thời gian này Hải đội Tàu ngầm 5 được giải thể, nên Đội tàu ngầm 30 được điều về Hạm đội Khu vực Tây Nam từ ngày 10 tháng 7. Sau khi hoàn tất việc đại tu, nó rời Sasebo vào ngày 22 tháng 7, và đi đến Penang vào ngày 6 tháng 8.

Chuyến tuần tra thứ năm

I-166 bắt đầu chuyến tuần tra thứ năm khi rời Penang vào ngày 11 tháng 8 để hoạt động trở lại trong Ấn Đô Dương. Trong chuyến đi này nó tự nhận đã đánh chìm hai tàu buôn Đồng Minh trong các ngày 16 và 17 tháng 8. Nó kết thúc chuyến tuần tra và quay trở về căn cứ Penang vào ngày 31 tháng 8.

Chuyến tuần tra thứ sáu

Trong chuyến tuần tra thứ sáu từ ngày 18 tháng 9 đến ngày 11 tháng 10, I-166 xuất phát từ Penang để tiếp tục hoạt động trong Ấn Đô Dương. Nó tấn công một tàu buôn Đồng Minh không rõ nhận dạng vào ngày 29 tháng 9, nhưng các quả ngư lôi bị trượt và mục tiêu chạy thoát. Đến ngày 1 tháng 10, nó cho đổ bộ ba người nổi dậy thuộc Quân đội Quốc gia Ấn Độ (bù nhìn của Nhật) lên Ceylon. Trong ngày hôm đó, lúc 13 giờ 10 phút, nó tấn công chiếc tàu buôn Panama Camila (1.201 tấn) bằng hải pháo, khiến mục tiêu bốc cháy và mắc cạn tại tọa độ , trở thành một tổn thất toàn bộ. I-166 kết thúc chuyến tuần tra tại Penang.

Chuyến tuần tra thứ bảy

Khởi hành từ Penang vào ngày 5 tháng 11 cho chuyến tuần tra thứ bảy, I-166 quay trở lại hoạt động trong khu vực Ấn Đô Dương. Vào ngày 13 tháng 11, nó tấn công một tàu buôn Đồng Minh không rõ nhận dạng trong biển Arabian bằng ngư lôi, nhưng không trúng đích và mục tiêu chạy thoát. Trong biển Arabian về phía Nam Kanyakumari vào ngày 23 tháng 11, nó phóng ngư lôi tấn công tàu buôn vũ trang Anh Cranfield (5.332 tấn), vốn đang trên đường từ Calcutta đến Suez, Ai Cập. Cranfield đắm tại tọa độ , với chín thủy thủ thiệt mạng và 67 người khác sống sót. I-166 kết thúc chuyến tuần tra và quay trở về căn cứ Penang vào ngày 28 tháng 11.

Chuyến tuần tra thứ tám

I-166 rời Penang vào ngày 5 tháng 12 cho chuyến tuần tra thứ tám, hướng đến khu vực hoạt động được chỉ định tại Ấn Độ Dương ngoài khơi bờ biển Tây Bắc Australia. Tuy nhiên không lâu sau đó, nó được lệnh đổi hướng để bắn phá quần đảo Cocos. Nó bắn phá hòn đảo này vào ngày 25 tháng 12, nhưng không có hoạt động nào khác, rồi kết thúc chuyến tuần tra vào quay trở về cảng Surabaya, Java vào ngày 27 tháng 12.

1943

Chuyến tuần tra thứ chín

I-166 rời Surabaya không lâu sau đó để quay trở về Sasebo, đến nơi vào ngày 19 tháng 1, 1943. Nó vào ụ tàu để sửa chữa và đại tu, và sau khi công việc hoàn tất, nó rời Sasebo vào đầu tháng 7, đi đến Surabaya vào giữa tháng 7. Chiếc tàu ngầm lên đường không lâu sau đó cho chuyến tuần tra thứ chín trong Ấn Độ Dương giữa Fremantle, Australia và eo biển Lombok Strait. Không tìm thấy mục tiêu nào đáng kể, nó đi đến Balikpapan, Borneo vào ngày 10 tháng 9, rồi tiếp tục hành trình vào ngày hôm sau để hướng sang Singapore, đến nơi vào ngày 13 tháng 9. Tai đây I-166 được điều về Hạm đội Khu vực Tây Nam, rồi khởi hành từ Singapore vào ngày 23 tháng 9, và đi đến Penang vào ngày 25 tháng 9.

Chuyến tuần tra thứ mười

Vào ngày 9 tháng 10, I-166 khởi hành từ Penang cho chuyến tuần tra thứ mười, và sau khi được tiếp thêm nhiên liệu tại Sabang ở bờ biển phía Bắc Sumatra, đã hướng sang hoạt động tại Ấn Độ Dương. Vào cuối tháng 10, nó phóng ngư lôi tấn công một tàu buôn Đồng Minh không rõ nhận dạng ngoài khơi Colombo, Ceylon, nhưng không trúngg đích. Nó kết thúc chuyến tuần tra và quay trở về Penang vào ngày 13 tháng 11.

Chuyến tuần tra thứ mười một

I-166 rời Penang vào ngày 7 tháng 12 cho chuyến tuần tra thứ mười một tại khu vực Ấn Độ Dương. Nó chuyển hướng tuần tra vào ngày 24 tháng 12 để tham gia vào Chiến dịch XO, khi cho đổ bộ sáu người nổi dậy bản địa Ceylon thuộc Quân đội Quốc gia Ấn Độ (bù nhìn của Nhật) lên Kirinda tại bở biển phía Tây Ceylon. Phản gián Anh đã phát hiện ra chiến dịch này, nên cả sáu người đều bị bắt không lâu sau khi đổ bộ và đều bị xử tử. Trong khi đó, I-166 tiếp tục chuyến tuần tra tại khu vực phụ cận eo biển Minicoy, nhưng không bắt gặp mục tiêu nào, và quay trở về Penang vào ngày tháng 1, 1944.

1944

Chuyến tuần tra thứ mười hai

Trong chuyến tuần tra thứ mười hai từ ngày 7 tháng 2, 1944 đến ngày 13 tháng 3, I-166 xuất phát từ Penang để hoạt động trong khu vực Ấn Độ Dương và vịnh Bengal. Vào ngày 19 tháng 2, nó phóng ngư lôi tấn công tàu chở dầu Anh British Fusilier (6.943 tấn), nhưng cả hai quả ngư lôi phóng ra đều bị trượt, và mục tiêu chạy thoát. Nó kết thúc chuyến tuần tra tại Penang.

Bị mất

Vào ngày 25 tháng 3, Đội tàu ngầm 3 của I-166 được điều sang Hải đội Tàu ngầm 8, rồi đến ngày 27 tháng 4, con tàu lên đường cho một nhiệm vụ tiếp liệu, rồi quay trở lại Penang vào ngày 1 tháng 6. Vào xế trưa ngày 16 tháng 7, nó rời Penang để gặp gỡ Lực lượng Tấn công Phân tán thứ nhất dưới quyền Phó đô đốc Takeo Kurita tại Lingga Roads, nơi I-166 sẽ cùng tàu ngầm I-37 phục vụ cho việc huấn luyện chống tàu ngầm của các tàu khu trục trong cuộc tập trận của Đệ Nhị hạm đội.

Vào ngày 17 tháng 7, tàu ngầm Anh tuần tra ở độ sâu kính tiềm vọng trong eo biển Malacca cách hải đăng One Fathom Bank về phía Đông Nam trong hoàn cảnh tầm nhìn kém. Nó phát hiện I-166 di chuyển trên mắt nước hướng thẳng đến nó ở khoảng cách lúc 07 giờ 08 phút, theo hướng 325 độ với vận tốc khoảng ; Telemachus cũng dò được tín hiệu sonar thụ động của mục tiêu ngay sau đó. Đến 07 giờ 20 phút, nó phóng một loạt sáu quả ngư lôi tấn công từ khoảng cách , và bị trồi lên mặt nước trong một lúc, vì các quả ngư lôi kiểu mới nặng hơn kiểu mà nó quen thuộc trước đây. Một quả ngư lôi đánh trúng sau 90 giây đã khiến phần đuôi của I-166 nổ tung, và nó đắm tại vùng nước sâu tại tọa độ . Mười thành viên thủy thủ đoàn bị vụ nổ hất tung xuống nước và được cứu vớt, còn 88 người khác tử trận cùng con tàu.

Căn cứ hải quân Nhật Bản tại Penang phái tàu rải mìn Wa-4 cùng hai tàu phóng lôi, được hỗ trợ bởi một máy bay ném bom Lục quân Mitsubishi Ki-21 ("Sally"), tìm kiếm và đánh chìm Telemachus. Wa-4 đã thả 12 quả mìn sâu, và chiếc Ki-21 ném hai quả bom 60 kg, nhưng Telemachus thoát được mà không bị hư hại.

I-166 được rút tên khỏi đăng bạ vào ngày 10 tháng 9, 1944.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_I-66_**, sau đổi tên thành **_I-166_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai V nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1932. Nó đã phục vụ trong
**_I-69_**, sau đổi tên thành **_I-169_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**_I-57_**, sau đổi tên thành **_I-157_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIB nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1929. Trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_I-58_**, sau đổi tên thành **_I-158_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIA nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1928. Trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_I-65_**, sau đổi tên thành **_I-165_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai V nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1932. Nó đã phục vụ trong
**_I-56_**, sau đổi tên thành **_I-156_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIB nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1929. Trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_I-43_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó chỉ kịp thực
**Tàu ngầm Kiểu _Kaidai**_ (海大型潜水艦, _Kaidai-gata sensuikan_) là một lớp tàu ngầm hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản hoạt động trước và trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Tên lớp tàu
Đây là danh sách các tàu chiến thuộc Đế quốc Nhật Bản. ## Tàu chiến trung cổ * Atakebune, Tàu chiến cận bờ thế kỉ 16. * Châu Ấn Thuyền – Khoảng 350 tàu buồm
**Lớp tàu khu trục L và M** là một lớp bao gồm 16 tàu khu trục được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào cuối những năm 1930 và đã phục vụ trong
**SMS _Thüringen**_ là một thiết giáp hạm dreadnought của Hải quân Đế quốc Đức trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất, là chiếc thứ ba trong lớp thiết giáp hạm _Helgoland_ bao gồm bốn chiếc.
thumb|Quân xưởng Hải quân Sasebo (1920-1930) là một trong bốn nhà máy đóng tàu hải quân chính thuộc quyền sở hữu và điều hành bởi Hải quân Đế quốc Nhật Bản. ## Lịch sử phải|Quân
**USS _Robinson_ (DD-88)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Wickes_ của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và sang đầu Chiến tranh Thế giới thứ hai được
**Chiến dịch quần đảo Gilbert và Marshall** từ tháng 11 năm 1943 đến tháng 2 năm 1944, là các chiến dịch chiến lược quan trọng của Hải quân và Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ
**Boeing B-52 Stratofortress** () là máy bay ném bom hạng nặng phản lực được Không quân Hoa Kỳ (USAF) sử dụng từ năm Hàng không năm 1955, thay thế cho các kiểu Convair B-36 và
**Hải quân Chiến khu miền Nam Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc** là một hạm đội của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập lần đầu cuối năm 1949. Kỳ hạm của
**Hạm đội Biển Đen** () là một đơn vị thuộc Hải quân Nga hoạt động ở Biển Đen và Địa Trung Hải kể từ thế kỷ 18. Hạm đội này đóng ở nhiều bến cảng
**BGM-109 Tomahawk** là loại tên lửa hành trình với nhiều biến thể, có khả năng mang đầu đạn hạt nhân, được phóng đi từ các hệ thống phóng mặt đất, chiến hạm hoặc tàu ngầm
**Quân chủng Hải quân**, hay còn gọi là **Hải quân nhân dân Việt Nam**, là một quân chủng của Quân đội nhân dân Việt Nam. Hải quân nhân dân Việt Nam có 6 đơn vị:
**Trận Tarawa** là một trận đánh giữa lực lượng Hoa Kỳ và Nhật Bản ở Tarawa của Quần đảo Gilbert, diễn ra từ ngày 20 tháng 11 tới ngày 23 tháng 11 năm 1943. Tarawa
**_Zero no Tsukaima_** (tiếng Nhật: ゼロの使い魔; Linh Thú Của Zero) là một series light novel của Noboru Yamaguchi, sau này được chuyển thể thành anime, với sau đó là manga, và visual novel cho máy
là bộ light novel được viết bởi Ryohgo Narita và do Suzuhito Yasuda vẽ minh hoạ. Phiên bản anime chuyển thể cùng tên của được công chiếu vào cuối năm 2009. Tính đến năm 2014,
**Tiger II** là tên thường gọi của một loại xe tăng hạng nặng Đức trong Thế chiến II. Tên định danh chính thức của Đức là **_Panzerkampfwagen Tiger Ausf. B_** , thường được gọi tắt
**Singapore** (, , ), quốc hiệu là **Cộng hòa Singapore**, là một đảo quốc và thành quốc có chủ quyền ở Đông Nam Á, nằm ngoài khơi về mũi phía nam của bán đảo Mã
**M4 Sherman,** tên chính thức là **Xe tăng hạng trung M4** (Medium Tank M4), là loại xe tăng hạng trung được quân đội Hoa Kỳ và các nước Đồng minh Tây Âu sử dụng rộng
**Graz** (; tiếng Slovene: _Gradec_, tiếng Séc: _Štýrský Hradec_) là thành phố thủ phủ của bang Steiermark và là thành phố lớn thứ hai tại Áo chỉ sau Viên. Tính đến ngày 1 tháng 1
**Trận Điện Biên Phủ** (; ), còn gọi là **Chiến dịch Điện Biên Phủ**, là trận đánh lớn nhất trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất diễn ra tại lòng chảo Mường Thanh, châu
**Thổ Nhĩ Kỳ** ( ), tên chính thức là nước **Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ** ( ), thường được gọi ngắn là **Thổ**, là một quốc gia xuyên lục địa, phần lớn nằm tại Tây
Đường Buchanan ở trung tâm thành phố, nhìn về phía nam **Glasgow** (tiếng Gael Scotland: _Glaschu_) là thành phố lớn nhất trong số 32 đơn vị hành chính của Scotland, nằm bên sông Clyde ở
**Sarawak** (Phiên âm tiếng Việt: Sa-ra-vác) là một trong hai bang của Malaysia nằm trên đảo Borneo (cùng với Sabah). Lãnh thổ này có quyền tự trị nhất định trên lĩnh vực hành chính, nhập
nhỏ|phải|Vị trí vùng Đồng bằng sông Cửu Long trên bản đồ Việt Nam **Đồng bằng sông Cửu Long**, còn được gọi là **Tây Nam Bộ** hay** miền Tây**, là vùng cực nam của Việt Nam,
Grönland **Greenland** (tiếng Greenland: _Kalaallit Nunaat_, nghĩa "vùng đất của con người"; tiếng Đan Mạch: _Grønland_, phiên âm tiếng Đan Mạch: **Grơn-len**, nghĩa "Vùng đất xanh") là một quốc gia tự trị thuộc Vương quốc
**Bến Lức** là một huyện thuộc tỉnh Long An, Việt Nam. ## Địa lý Huyện Bến Lức nằm ở phía đông bắc của tỉnh Long An, là cửa ngõ phía bắc của miền Tây Nam
Bản đồ hành chính Nam Mỹ Hình ảnh chụp từ [[vệ tinh khu vực Nam Mỹ]] **Nam Mỹ** (hay **Nam Mĩ**) là phần lục địa nằm ở phía tây của Nam Bán cầu của Trái
**Kristina của Thụy Điển** (tiếng Thụy Điển: _Drottning Kristina_; 18 tháng 12, năm 1626 - 19 tháng 4, năm 1689) là Nữ vương của Thụy Điển từ năm 1632 cho đến khi bà thoái