✨Lớp tàu khu trục L và M

Lớp tàu khu trục L và M

Lớp tàu khu trục L và M là một lớp bao gồm 16 tàu khu trục được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào cuối những năm 1930 và đã phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Chín chiếc đã bị mất trong chiến tranh; trong số những chiếc còn sống sót, bốn chiếc được bán cho Thổ Nhĩ Kỳ và những chiếc còn lại được tháo dỡ.

Chi tiết thiết kế

Những chiếc trong lớp L và M có một ống khói duy nhất, giống như lớp J trước đó, với một cột ăn-ten trước ba chân và một cột ăn-ten chính ngắn ngay sau giữa tàu. Một điểm đặc biệt là thiết kế cầu tàu: mọi tàu khu trục của Hải quân Hoàng gia từ lớp I cho đến lớp Weapon đều chia sẻ một cầu tàu dạng hình nêm, bao gồm một phòng lái chống đạn, được nâng cao để hoa tiêu có thể nhìn bên trên các khẩu pháo. Việc nâng chiều cao các khẩu pháo trên lớp L đã khiến cho phòng lái phải được nâng cao hơn nữa, và mái dốc của phòng lái nhằm dẫn hướng gió đến bệ la bàn hầu như phẳng. Đặc tính này là điểm độc đáo của lớp L và M.

Khi được đặt hàng, lớp tàu bao gồm một soái hạm khu trục và 7 tàu khu trục. Mỗi chiếc được trang bị sáu khẩu pháo và tám ống phóng ngư lôi. Vũ khí tầm gần vẫn còn đang chờ để được quyết định, khi thời hạn để giao hàng là một yếu tố then chốt. Vũ khí trang bị cho lớp là một đề tài được tranh luận đáng kể, khi mà đề nghị về vũ khí phòng không mạnh mẽ hơn cho những con tàu này cuối cùng cũng được Bộ Hải quân Anh lắng nghe. Việc này có được là nhờ những bài học thu được qua cuộc Nội chiến Tây Ban Nha, nơi mà máy bay quân sự giờ đây đã tiến triển đến mức là một mối đe dọa chủ yếu cho các mục tiêu trên đất liền và trên biển.

Chúng là những tàu khu trục Anh đầu tiên có các bệ pháo hoàn toàn kín. Chúng cũng tiếp nối một thực hành, vốn bắt đầu từ lớp J, là chiếc soái hạm dẫn đầu hầu như không thể phân biệt so với phần còn lại của lớp, chỉ có cabin rộng rãi hơn và thiết bị vô tuyến tốt hơn.

Dàn vũ khí chính

Khi được đặt hàng, những chiếc lớp L dự định mang sáu khẩu pháo QF Mk XI trên các tháp pháo nòng đôi Mark XX ở các vị trí 'A', 'B', và 'X'. Bệ 'X' có góc bắn ước lượng 320° ở góc nâng thấp và 360° ở góc nâng khoảng 20°. Bản thân pháo Mark XI là một sự cải tiến đáng kể khi nó bắn ra đạn pháo nặng so với đạn pháo trên lớp J dẫn trước. Bệ Mark XX hoàn toàn kín và dự định hoạt động ở mọi thời tiết; nhưng trong thực tế thủy thủ đoàn không dễ chịu. Nó cũng cho phép các khẩu pháo nâng độc lập với nhau. Bệ Mark XX không phải là một tháp pháo thực sự theo góc độ kỹ thuật, vì hệ thống nạp đạn pháo tách biệt khỏi bệ vũ khí và không xoay theo khẩu pháo. Điều này có nghĩa là việc tiếp đạn khi khẩu pháo xoay hết giới hạn sẽ có gặp khó khăn, và băng chuyền tiếp đạn phải đặt giữa các khẩu pháo như trường hợp pháo /38 caliber của Hải quân Hoa Kỳ. Kết quả là các khẩu pháo được đặt rất cách xa nhau.

Bệ Mark XX cho phép tăng góc nâng lên 50° so với 40°Của các phiên bản trước. Tuy nhiên, thời gian đối phó với máy bay đối phương vẫn bị giới hạn, cho dù pháo cỡ trung không hiệu quả lắm đối với máy bay ném bom bổ nhào cho đến khi áp dụng đạn pháo với kíp nổ tiếp cận radar. Hải quân Đế quốc Nhật Bản đã đưa ra pháo với góc nâng 70°, nhưng trong phục vụ như một vũ khí phòng không chúng có tính năng thể hiện kém, trong khi pháo 3 inch/38 caliber trên bệ Mark 32 của Hải quân Hoa Kỳ có thể năng đến 85°. Pháo trang bị trên tàu sân bay đã đưa vào phục vụ và có khả năng nâng đến góc 80°, cho dù bệ của chúng không phù hợp cho một tàu cỡ tàu khu trục. Cộng với việc thiếu sót khả năng nâng bằng điện, bệ Mark XX là một sự thỏa hiệp khi lựa chọn cho vai trò phòng không, cho dù nó có ưu điểm khi so sánh với vũ khí tương đương của phe Trục.

Một phát triển khác liên quan đến dàn pháo chính là việc áp dụng tháp kiểm soát hỏa lực kết hợp góc cao/góc thấp HA/LA Mk.IV. Không may là thiết bị này không thể thỏa mãn hoàn toàn ở chế độ góc cao, và nặng hơn ít nhất một tấn. Sau này nó cũng hoạt động, lại không mấy thành công, như là "Tháp K" Mk.I trên những tàu khu trục lớp Z. Các con tàu này sử dụng máy tính kiểm soát hỏa lực góc cao kiểu đồng hồ định thời kíp nổ.

Như được đặt hàng vào ban đầu, lớp L không có một vũ khí tầm gần, vì các bộ phận khác nhau bất đồng về vũ khí trang bị. Các quan điểm bao gồm trang bị một hay hai dàn pháo QF 2-pounder "pom-pom" phòng không bốn nòng, một "pom-pom" và một súng máy nhiều nòng đang được phát triển, một "pom-pom" và súng máy Vickers truyền thống, được tranh luận về hiệu quả của cả ba loại vũ khí, càng thêm nóng bỏng do lịch sản xuất sít sao (một khẩu "pom-pom" thứ hai cho mỗi con tàu chỉ có thể sẵn sàng vào năm 1942), tính năng kém của các kiểu súng máy 0.661 được phát triển, và cuộc vận động bởi một số sĩ quan trẻ do Lord Louis Mountbatten dẫn đầu. Cuối cùng, việc phát triển súng máy 0.661 bị bỏ dỡ do nó rõ ràng không thể sẵn sàng và hiệu quả trong một thời biểu nhạy cảm, và giúp đơn giản hóa việc tranh luận.

Việc chiến tranh nổ ra đã giúp tập trung các đầu óc. Vào tháng 2 năm 1940, hai yếu tố đã đưa đến đề nghị thay đổi thiết kế của bốn chiếc lớp L nhằm trang bị hỏa lực chính là pháo QF Mk XVI* trên các bệ góc cao/góc thấp (HA/LA) nòng đôi, do nó đã được sử dụng như vũ khí hạng hai trên lớp tàu tuần dương Southampton đã đưa vào hoạt động, và như vũ khí chính cho lớp tàu xà lúp Black Swan đang được chế tạo. Các thay đổi kèm theo bao gồm hai dàn súng máy bốn nòng. Mọi chiếc trong lớp này ngoại trừ và mang một dàn QF 2-pounder "Pom-pom" bốn nòng.

Những bài học rút ra từ Chiến dịch Na Uy và cuộc Triệt thoái Dunkirk đưa đến nhu cầu phải có những thay đổi này, và chúng được chấp thuận vào tháng 7 năm 1940, cũng như bốn dàn pháo hai nòng thay vì chỉ là ba như được đề nghị ban đầu. Dàn pháo thứ tư được bố trí ở phần cuối của cấu trúc thượng tầng phía sau, vốn hạn chế góc bắn của cả hai bệ, nhưng đảm bảo bệ thứ tư vẫn sẵn sàng để sử dụng trong thời tiết xấu. Không phải mọi sĩ quan cấp cao đều chấp thuận, một số bày tỏ công khai quan điểm các con tàu này sẽ không đối chọi thành công với đối thủ tiềm năng của nước ngoài. Kinh nghiệm tại Địa Trung Hải, đặc biệt là của Lực lượng K vốn có hai chiếc lớp L trang bị pháo 4-inch, cho thấy sự suy giảm sức mạnh các khẩu pháo đối với mục tiêu mặt biển được cân bằng lại nhờ tốc độ bắn nhanh hơn.

Việc xem xét lại hỏa lực phòng không vẫn tiếp tục, và đến tháng 10 có quyết định tháo dỡ dàn phóng ngư lôi phía sau để trang bị một dàn pháo góc cao thay thế, và đó là cấu hình mà những chiếc trang bị pháo cuối cùng đi ra biển; cho dù trên một số chiếc còn sống sót, bao gồm và , dàn phóng ngư lôi phía sau được trang bị lại vào cuối chiến tranh.

Các cải biến được đề nghị

Vào đầu những năm 1950, người ta đề nghị cải biến năm chiếc còn lại của lớp M cùng với bảy chiếc tàu khu trục trong Chương trình Khẩn cấp Chiến tranh thành những tàu frigate phòng không Kiểu 62. Việc cải biến bao gồm thay thế vũ khí và cảm biến của các con tàu. Đề nghị ban đầu sẽ trang bị một tháp pháo 4 inch nòng đôi, một khẩu đội Bofors 40 mm phòng không nòng đôi và một dàn súng cối Squid chống tàu ngầm. Radar dò tìm trên không Kiểu 982 và 983 sẽ được trang bị, cũng như sonar Kiểu 162 và 166. Vào tháng 3 năm 1952, chương trình được tiết giảm, do các tàu khu trục chiến tranh khẩn cấp quá nhỏ không thể mang những radar nặng hơn. Cuối năm đó, có quyết định thay pháo 4 inch bằng kiểu hải pháo 3 inch/50 caliber nòng đôi của Hoa Kỳ. Kế hoạch cuối cùng bị hủy bỏ vào tháng 5 năm 1954, một phần là do tình trạng của các con tàu và khả năng chịu sốc kém.

Chế tạo và hoạt động

Lớp L (còn được gọi là lớp _Laforey_) được chấp thuận trong Dự toán Ngân sách Hải quân 1937. Bốn chiếc trong lớp: , , và Larne được chế tạo với pháo . Sáu trong số tám chiếc của lớp đã mất trong chiến tranh, hai chiếc còn sống sót bị tháo dỡ vào năm 1948.

Lớp M được chế tạo trong Dự toán Ngân sách Hải quân 1939. Chúng phục vụ cùng Hạm đội Nhà cho đến năm 1944 rồi được chuyển sang Địa Trung Hải. Ba chiếc bị mất trong chiến tranh; trong số năm chiếc còn sống sót, bị tháo dỡ năm 1955 và bốn chiếc còn lại được bán cho Thổ Nhĩ Kỳ năm 1958.

Những chiếc trong lớp

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lớp tàu khu trục L và M** là một lớp bao gồm 16 tàu khu trục được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào cuối những năm 1930 và đã phục vụ trong
**Tàu khu trục lớp Kongō** (tiếng Nhật: こんごう型護衛艦) là lớp tàu khu trục mang tên lửa có điều khiển (DDG) đầu tiên của Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF) được chế tạo
**Tàu khu trục lớp Murasame** (tiếng Nhật: むらさめ型護衛艦) là một lớp tàu khu trục (**DD**) thuộc biên chế của Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF). Đây là lớp tàu khu trục thế
**Tàu khu trục lớp Atago** (tiếng Nhật: あたご型護衛艦) là một lớp tàu khu trục tên lửa (**DDG**) được trang bị hệ thống chiến đấu Aegis (AWS) thuộc biên chế của Lực lượng Phòng vệ trên
**Lớp tàu khu trục J, K và N** là một lớp bao gồm 24 tàu khu trục được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc hạ thủy vào năm 1938. Sau khi lớp Tribal dẫn trước
nhỏ|300x300px| nhỏ|upright|Tàu khu trục , một chiếc thuộc của [[Hải quân Hoa Kỳ.]] **Tàu khu trục**, hay còn gọi là **khu trục hạm**, (tiếng Anh: _destroyer_) là một tàu chiến chạy nhanh và cơ động,
**_Hayate_** (tiếng Nhật: 疾風) là một tàu khu trục hạng nhất, thuộc lớp _Kamikaze_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản bao gồm chín chiếc, được chế tạo sau khi Chiến tranh Thế giới thứ
**HMS _Laforey_ (G99)** là một tàu khu trục lớp L được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào cuối những năm 1930. Nó đã nhập biên chế và phục vụ trong Chiến tranh
**HMS _Matchless_ (G52)** là một tàu khu trục lớp M được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào cuối những năm 1930. Nó đã nhập biên chế và phục vụ trong suốt Chiến
**HMS _Mahratta_ (G99)** là một tàu khu trục lớp M được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào cuối những năm 1930. Nguyên được mang tên _Marksman_, nó bị hư hại đang khi
**HMS _Lookout_ (G32)** là một tàu khu trục lớp L được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào cuối những năm 1930. Nó đã nhập biên chế và phục vụ trong suốt Chiến
**Lớp tàu tuần dương _Kirov_ (Đề án 26)** là một lớp gồm sáu tàu tuần dương được đóng vào cuối những năm 1930 của Hải quân Liên Xô. Sau hai con tàu đầu tiên, giáp
**HMS _Legion_ (G74)** là một tàu khu trục lớp L được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào cuối những năm 1930. Nó đã nhập biên chế và phục vụ trong Chiến tranh
**HMS _Lightning_ (G55)** là một tàu khu trục lớp L được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào cuối những năm 1930. Nó đã nhập biên chế và phục vụ trong Chiến tranh
**HMS _Gurkha_ (F63/G63)** là một tàu khu trục lớp L được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào cuối những năm 1930. Nguyên được mang tên _Larne_ với ký tự bắt đầu là
**HMS _Lance_ (G87)** là một tàu khu trục lớp L được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào cuối những năm 1930. Nó đã nhập biên chế và phục vụ trong Chiến tranh
**HMS _Musketeer_ (G86)** là một tàu khu trục lớp M được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào cuối những năm 1930, và là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoàng
**ORP _Orkan_ (G90)** là một tàu khu trục của Hải quân Ba Lan trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó nguyên là một tàu khu trục lớp L do Hải quân Hoàng gia Anh
**HMS _Martin_ (G44)** là một tàu khu trục lớp M được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào cuối những năm 1930. Nó đã nhập biên chế và phục vụ trong Chiến tranh
**HMS _Lively_ (G40)** là một tàu khu trục lớp L được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào cuối những năm 1930. Nó đã nhập biên chế từ năm 1941 và phục vụ
**HMS _Meteor_ (G74)** là một tàu khu trục lớp M được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào cuối những năm 1930. Nó đã nhập biên chế và phục vụ trong suốt Chiến
**HMS _Marne_ (G35)** là một tàu khu trục lớp M được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào cuối những năm 1930. Nó đã nhập biên chế và phục vụ trong suốt Chiến
**HMS _Loyal_ (G15)** là một tàu khu trục lớp L được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào cuối những năm 1930. Nó đã nhập biên chế và phục vụ trong suốt Chiến
**HMS _Milne_ (G14)** là một tàu khu trục lớp M được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào cuối những năm 1930. Nó đã nhập biên chế và phục vụ trong suốt Chiến
**Tàu ngầm Type IXA** là một phân lớp của Type IX được Hải quân Đức Quốc xã chế tạo vào các năm 1935-1936 như những tàu ngầm đại dương hoạt động tầm xa. Khái niệm
**USS _Wallace L. Lind_ (DD-703)** là một tàu khu trục lớp _Allen M. Sumner_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất
**USS _Mannert L. Abele_ (DD-733)** là một tàu khu trục lớp _Allen M. Sumner_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất
**Lớp tàu rải mìn _Abdiel**_ bao gồm sáu tàu rải mìn nhanh của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc đã hoạt động trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Chúng đôi khi được biết đến
**USS _Anderson_ (DD-411)** là một tàu khu trục lớp _Sims_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai; nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân
**USS _Alden_ (DD-211)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và đã tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Thế
**HMS _Esk_ (H15)** là một tàu khu trục lớp E được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào đầu những năm 1930. Nó được thiết kế để dễ dàng cải biến thành một
**USS _Gwin_ (DD-433)** là một tàu khu trục lớp _Gleaves_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã hoạt động tại khu vực Đại Tây Dương trước
**Shikishima** (tiếng Nhật: しきしま) là lớp tàu tuần tra lớn nhất của Cảnh sát Biển Nhật Bản. Lớp này hiện có 2 tàu Shikishima (số hiệu PLH31) và Akitsushima (PLH32). Chữ P trong số hiệu
**Lớp thiết giáp hạm _Scharnhorst**_ là những tàu chiến chủ lực đầu tiên, thuật ngữ dùng để chỉ tàu chiến-tuần dương hay thiết giáp hạm, được chế tạo cho Hải quân Đức (_Kriegsmarine_) sau Chiến
**Lớp thiết giáp hạm _North Carolina**_ là một lớp bao gồm hai thiết giáp hạm, _North Carolina_ và _Washington_, được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ vào cuối thập niên 1930 và đầu thập
**USS _Wasmuth_ (DD-338/DMS-15)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân
**USS _Zane_ (DD-337/DMS-14/AG-109)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân
**USS _Sands_ (DD-243/APD-13)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, đã tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Thế giới
**USS _John W. Thomason_ (DD-760)** là một tàu khu trục lớp _Allen M. Sumner_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất
**USS _Zellars_ (DD-777)** là một tàu khu trục lớp _Allen M. Sumner_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải
**USS _Willard Keith_ (DD-775)** là một tàu khu trục lớp _Allen M. Sumner_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của
nhỏ|Tàu corvette [[động cơ hơi nước|hơi nước Pháp _Dupleix_ (1856–1887)]] **Corvette** (nguồn gốc từ tiếng Pháp: _corvair_; tiếng Việt còn có thể dịch là **tàu hộ tống nhỏ**, **tàu hộ vệ** hay **hộ vệ hạm**
**USS _Manley_ (DD-74/AG-28/APD-1)** là một tàu khu trục của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _Caldwell_ được chế tạo và phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Được cho ngừng hoạt động không
**USS _Waters_ (DD-115/ADP-8)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Wickes_ của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, sau được cải biến thành tàu vận chuyển cao tốc
**USS _Lowry_ (DD-770)** là một tàu khu trục lớp _Allen M. Sumner_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải
**USS _Alfred A. Cunningham_ (DD-752)** là một tàu khu trục lớp _Allen M. Sumner_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất
**USS _Hoel_ (DD-533)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Mỹ
**USS _Henley_ (DD-762)** là một tàu khu trục lớp _Allen M. Sumner_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ tư của Hải
**USS _Purdy_ (DD-734)**, là một tàu khu trục lớp _Allen M. Sumner_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải
**USS _Turner_ (DD-259)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất và trong biên chế từ năm 1919 đến năm 1922.