✨Lớp tàu khu trục J, K và N

Lớp tàu khu trục J, K và N

Lớp tàu khu trục J, K và N là một lớp bao gồm 24 tàu khu trục được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc hạ thủy vào năm 1938. Sau khi lớp Tribal dẫn trước nhấn mạnh về vũ khí hải pháo hơn là ngư lôi, chúng quay trở lại thiết kế tàu nhỏ hơn với dàn vũ khí ngư lôi mạnh hơn. Chúng được chế tạo thành ba chi hạm đội, mỗi nhóm bao gồm tám tàu với tên được bắt đầu bằng các ký tự "J", "K" và "N". Ký tự dẫn đầu của ký hiệu lườn tàu được thay đổi từ "F" sang "G" vào năm 1940. Trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, chúng được cải biến liên tục, đặc biệt là vũ khí phòng không, cũng như được trang bị thêm radar. Là những tàu khu trục mạnh mẽ và hiện đại nhất của Hải quân Hoàng gia vào lúc chiến tranh nổ ra, chúng được sử dụng rộng rãi, và kết quả là phải chịu tổn thất rất cao, với sáu chiếc lớp J, sáu chiếc lớp K và một chiếc lớp N bị mất trong tổng số 24 chiếc được chế tạo.

Lịch sử thiết kế

Thiết kế dự định dành cho lớp J là một sự tiếp nối nhỏ hơn so với lớp Tribal dẫn trước, tích hợp một ý tưởng mới khác biệt đáng kể so với mọi thiết kế tàu khu trục trước đây của Hải quân Hoàng gia; đó là việc áp dụng cách sắp xếp hai phòng nồi hơi. Điều này giúp làm giảm bớt chiều dài lườn tàu và cho phép có một ống khói duy nhất, cả hai làm giảm hình bóng và cải thiện góc bắn của vũ khí phòng không hạng nhẹ. Tuy nhiên, điều này cũng làm gia tăng sự mong manh, khi giờ đây có hai ngăn lớn nối tiếp nhau với hậu quả về nguy cơ một phát trúng đích chính xác sẽ làm ngập nước cả hai và làm mất toàn bộ động lực cung cấp từ nồi hơi. Việc này cũng minh họa phần nào quan điểm của Bộ Hải quân Anh về bản chất có thể bị tiêu hao của tàu khu trục. Tất nhiên là điều này trái ngược với cấu hình 3 phòng nồi hơi được sử dụng bắt đầu từ lớp tàu khu trục F vào đầu những năm 1930. Những chiếc ban đầu còn có xu hướng sử dụng hai phòng nồi hơi, vẫn là một sự cải tiến lớn so với một phòng nồi hơi. Cho dù thế nào, tàu khu trục là những con tàu nhanh với vỏ giáp mỏng, chiến đấu để sống sót dựa vào sự lẩn tránh không để bị đánh trúng. Xác suất một cú đánh trúng duy nhất đúng chỗ để có thể đồng thời loại bỏ cả hai phòng nồi hơi được xem là thấp, đủ để liều lĩnh chấp nhận nhằm đánh đổi các lợi ích của cách sắp xếp hai phòng nồi hơi. thumb|left| trên đường đi Một tiến bộ đáng kể trong kỹ thuật chế tạo được nhà kiến trúc hải quân Albert Percy Cole phát triển. Thay cho các đoạn khung ngang chắc chắn một cách không cần thiết, nhưng được kết nối bởi các trục dọc yếu, Cole đã thiết kế các khung dọc thật chắc chắn và các khung ngang yếu hơn. Một tiến triển khác là thay đổi thiết kế mũi tàu, khác biệt so với lớp Tribal dẫn trước. Hình dáng mũi tàu dạng cắt được thay bằng một mũi tàu thắng đứng và tăng độ dốc đứng. Thay đổi này không thành công, vì các con tàu bị ướt nước nhiều phía trước. Khuyết điểm này được sửa lại kể từ lớp S trở đi bằng cách quay lại kiểu dáng trước đó.

Cho dù có sự mong manh của cách sắp xếp hai phòng nồi hơi, thiết kế này tỏ ra gọn gàng, vững chắc và rất thành công, hình thành nên thiết kế căn bản cho mọi tàu khu trục của Hải quân Hoàng gia bắt đầu từ lớp O cho đến chiếc cuối cùng của lớp C vào năm 1943-1945.

Vũ khí trang bị được dựa trên những chiếc lớp Tribal, nhưng thay thế một khẩu đội QF Mark XII (L/45) nòng đôi trên bệ CP Mk.XIX bởi một dàn ống phóng ngư lôi tăng cường. Bệ CP Mk.XIX có khả năng nâng đến góc 40° và xoay được 340°. Điểm kỳ quặc là bệ pháo ‘X’ được đặt tại vị trí với góc khuất 20° về phía đuôi, thay vì một vị trí chuyển ra phía trước hợp lý hơn, nơi góc bắn cũng bị che khuất bởi cầu tàu và cột ăn-ten. Với dàn ống phóng ngư lôi gồm 5 ống, giờ đây có thể mang theo 10 ngư lôi Mark IX. Hỏa lực phòng không được giữ nguyên, bao gồm một khẩu đội QF 2 pounder Mark VIII "pom-pom" bốn nòng trên bệ Mk.VII cùng một cặp súng máy Vickers 0,5 inch bốn nòng; và trong chiến tranh còn được tăng cường thêm bằng cách thay thế súng máy bốn nòng bằng pháo tự động Oerlikon 20 mm. Các con tàu này, khi hoàn tất, có một dàn hỏa lực phòng không tầm gần khá mạnh mẽ so với các tàu khu trục đương thời. Cách sắp xếp hệ thống kiểm soát hỏa lực cũng khác biệt so với lớp Tribal, và bộ điều khiển góc cao (HA) dành riêng không được trang bị, thay vào đó chỉ có một máy đo tầm xa được bố trí phía sau tháp điều khiển hỏa lực. Trong trường hợp này, máy đo tầm xa được cải biến đáng kể để điều khiển dàn pháo chính cho hỏa lực phòng không; các con tàu này được trang bị Đồng hồ Hẹn giờ Kíp nổ như Máy tính Kiểm soát Hỏa lực Góc cao.

Lớp N được đặt hàng vào năm 1940 như là sự lặp lại của thiết kế lớp J, sau khi có những sự trì hoãn và chi phí cao liên quan với lớp L và M lớn hơn và phức tạp hơn. Thay đổi duy nhất đối với thiết kế là dời chỗ bệ pháo 'X' 4,7 inch đến một vị trí hợp lý hơn, với góc khuất 20° hướng về phía trước. Trong khi chế tạo, các cải biến ban đầu trong chiến tranh tương tự như với lớp J và K được áp dụng, với một cặp súng máy 0,5 inch nòng đôi vận hành bằng điện được bố trí trên sàn sau trong một thời gian ngắn trước khi được thay thế bởi pháo Oerlikon 20 mm. thumb|left|Sinh hoạt tôn giáo trên chiếc HMS Javelin, [[tháng 8 năm 1940. Lưu ý khẩu pháo QF 4-inch Mk V phòng không ở góc trên bên trái và các quả mìn sâu ở góc dưới bên phải]]

Cải biến

Trong năm 1940 và 1941, để cải thiện khả năng phòng không, mọi con tàu đều được tháo dỡ dàn ống phóng ngư lôi phía sau, thay thế bằng một khẩu QF QF Mark V nòng đơn trên bệ HA Mark III. Các khẩu súng máy nhiều nòng tương đối không hiệu quả được thay bằng một khẩu Oerlikon 20 mm nòng đơn, rồi tăng cường thêm một cặp bố trí ngang với bệ đèn pha giữa tàu. Thiết bị quét mìn cao tốc dành cho tàu khu trục được thay thế bằng một đường ray và hai máy máy ném mìn sâu, với 45 quả mìn được mang theo. Một bộ radar cảnh báo trên không Kiểu 286 được bổ sung trên cột ăn-ten trước, cùng một bộ radar kiểm soát hỏa lực Kiểu 285 đặt trên bệ kiểm soát hỏa lực góc cao.

Vào năm 1942, khẩu pháo QF 4 inch phòng không được tháo dỡ để trang bị lại dàn ống phóng ngư lôi trên mọi con tàu còn sống sót. Các khẩu Oerlikon 20 mm được thay bằng kiểu nòng đôi, ngoại trừ những khẩu trên sàn sau; và radar Kiểu 291 thay thế cho Kiểu 286. Jervis, Kelvin, NerissaNorman thay thế đèn pha bằng radar bước sóng xen-ti mét chỉ định mục tiêu Kiểu 271; trong khi JavelinKimberley có radar Kiểu 272 nhẹ hơn bố trí trên thân cột ăn-ten trước. Napier, Nizam cùng Norseman, và sau đó là Norman, có radar SG1 Radar của Hoa Kỳ đặt trên đỉnh cột ăn-ten trước kiểu mới dạng lưới. Norman thay thế bộ radar Kiểu 271 bằng một khẩu Bofors 40 mm nòng đơn. Cho đến khi chiến tranh kết thúc, những chiếc lớp J và K còn sống sót có một cột ăn-ten dạng lưới, với radar chỉ định mục tiêu Kiểu 293 ở giữa thân và radar cảnh báo trên không Kiểu 291 trên đỉnh.

Những chiếc trong lớp

  • ‡ = soái hạm khu trục

Lớp J

Lớp K

Lớp N-class

:Ghi chú: Các tàu khu trục lớp N của Hải quân Hoàng gia Australia được nhập biên chế Australia và có thủy thủ đoàn người Australia, nhưng thuộc quyền sở hữu của chính phủ Anh.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lớp tàu khu trục J, K và N** là một lớp bao gồm 24 tàu khu trục được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc hạ thủy vào năm 1938. Sau khi lớp Tribal dẫn trước
**Tàu khu trục lớp Kongō** (tiếng Nhật: こんごう型護衛艦) là lớp tàu khu trục mang tên lửa có điều khiển (DDG) đầu tiên của Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF) được chế tạo
**Tàu khu trục lớp Atago** (tiếng Nhật: あたご型護衛艦) là một lớp tàu khu trục tên lửa (**DDG**) được trang bị hệ thống chiến đấu Aegis (AWS) thuộc biên chế của Lực lượng Phòng vệ trên
**Lớp tàu khu trục G và H** là một lớp gồm 24 tàu khu trục được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo và hạ thủy từ năm 1935 đến năm 1939; hai chiếc
**HMS _Jervis_ (H00)** là một soái hạm khu trục, chiếc dẫn đầu của lớp tàu khu trục J được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào cuối những năm 1930. Được đặt tên
**HMS _Kimberley_ (F50)** là một tàu khu trục lớp K được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào cuối những năm 1930. Tên nó được đặt theo thị trấn Kimberley, Northern Cape, nơi
**HMS _Kelvin_ (F37)** là một tàu khu trục lớp K được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào cuối những năm 1930. _Kelvin_ đã phục vụ trong suốt Chiến tranh Thế giới thứ
**HMS _Kelly_ (F01)** là một soái hạm khu trục, chiếc dẫn đầu của lớp tàu khu trục K được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào cuối những năm 1930. Được đặt tên
**HMAS _Nestor_ (G02)** là một tàu khu trục lớp N đã phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Australia trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Được chế tạo tại Scotland vào năm 1939-1940 và
**HMAS _Norman_ (G49/D16)** là một tàu khu trục lớp N đã phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Australia trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Được chế tạo tại Scotland vào năm 1939-1940 và
**HMAS _Nizam_ (G38/D15)** là một tàu khu trục lớp N đã phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Australia trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Được chế tạo tại Scotland vào năm 1939-1940 và
**HMAS _Nepal_ (G25/D14)** là một tàu khu trục lớp N đã phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Australia trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Được hạ thủy năm 1941 như là chiếc _Norseman_,
**HMAS _Napier_ (G97/D13)** là một tàu khu trục lớp N đã phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Australia trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Được chế tạo tại Scotland vào năm 1939-1940 và
**HMS _Kingston_ (F64)** là một tàu khu trục lớp K được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào cuối những năm 1930. _Kingston_ đã phục vụ trong suốt Chiến tranh Thế giới thứ
**HMS _Jackal_ (F22)** là một tàu khu trục lớp J được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào cuối những năm 1930. Trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, nó đã phục vụ
**HMS _Khartoum_ (F45)** là một tàu khu trục lớp K được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào cuối những năm 1930. _Khartoum_ đã phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai
**HMS _Javelin_ (F61)** là một tàu khu trục lớp J được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào cuối những năm 1930. _Javelin_ đã phục vụ cho đến hết Chiến tranh Thế giới
**HMS _Kandahar_ (F28)** là một tàu khu trục lớp K được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào cuối những năm 1930. _Kandahar_ đã phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai
**HMS _Jupiter_ (F85)** là một tàu khu trục lớp J được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào cuối những năm 1930. _Jupiter_ đã phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai
**HMS _Jersey_ (F72)** là một tàu khu trục lớp J được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào cuối những năm 1930. _Jersey_ đã phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai
**HMS _Janus_ (F53)** là một tàu khu trục lớp J được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào cuối những năm 1930. _Janus_ đã phục vụ trong suốt Chiến tranh Thế giới thứ
**HMS _Jaguar_ (F34)** là một tàu khu trục lớp J được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào cuối những năm 1930. _Jaguar_ đã phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai
**HMS _Kashmir_ (F12)** là một tàu khu trục lớp K được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào cuối những năm 1930. _Kashmir_ đã phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai
**ORP _Piorun_ (G65)** là một tàu khu trục lớp N đã phục vụ cùng Hải quân Ba Lan trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Được Hải quân Hoàng gia Anh đặt lườn như là
**HMS _Kipling_ (F91)** là một tàu khu trục lớp K được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào cuối những năm 1930. _Kipling_ đã phục vụ trong suốt Chiến tranh Thế giới thứ
**HMS _Juno_ (F46)** là một tàu khu trục lớp J được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào cuối những năm 1930. _Juno_ đã phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai
**HNLMS _Van Galen_ (G84)** là một tàu khu trục lớp N của Hải quân Hoàng gia Hà Lan trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó nguyên được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế
**Trận tấn công Trân Châu Cảng** (hay **Chiến dịch Hawaii** và **Chiến dịch AI** của Hawaii, và **Chiến dịch Z** theo cách gọi của Bộ Tổng tư lệnh Đế quốc Nhật Bản) là một cuộc
**Sukhoi Su-30MKK** ( , tên ký hiệu của NATO: **Flanker-G**) là một mẫu máy bay được sửa đổi từ loại Su-27 vào năm 1999 bởi KnAAPO, JSC. Nó được coi là một phiên bản nâng
Ying Ji-1 (YJ-1, 鹰击, âm Hán Việt: Ưng Kích) là phiên bản thử nghiệm đầu tiên mà sau này được chế tạo hàng loạt dưới tên gọi Ying Ji-2 (YJ-2), theo phân lớp của Phương
**Tử Cấm Thành** () là một khu phức hợp cung điện ở khu Đông Thành thuộc Bắc Kinh, Trung Quốc, với tổng diện tích 720.000 mét vuông (180 mẫu). Dù là khu phức hợp cung
**USS _Enterprise_ (CVN-65)**, trước đây từng mang ký hiệu **CVA(N)-65**, là một tàu sân bay của Hải quân Hoa Kỳ hiện đã xuất biên chế. Nó là chiếc tàu sân bay đầu tiên chạy bằng
**Mikoyan-Gurevich MiG-21** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-21) (tên ký hiệu của NATO: **Fishbed** - **Cá hóa thạch**) là một máy bay tiêm kích phản lực, được thiết kế bởi phòng thiết kế Mikoyan, Liên
**S-300** là một loạt các hệ thống Tên lửa đất đối không tầm xa Nga do Tổng công ty khoa học công nghiệp Almaz sản xuất dựa trên phiên bản S-300P đầu tiên. Hệ thống
Chiếc **Typhoon** là một kiểu máy bay tiêm kích-bom Anh Quốc một chỗ ngồi, được sản xuất bởi Hawker Aircraft bắt đầu từ năm 1941. Mặc dù nó được dự định để thay thế cho
**Julius Robert Oppenheimer** (; 22 tháng 4 năm 1904 – 18 tháng 2 năm 1967) là một nhà vật lý lý thuyết người Mỹ và là giám đốc phòng thí nghiệm Los Alamos của dự
Thăm dò **Địa chấn phản xạ** (Seismic Reflection), là một phương pháp của _địa vật lý thăm dò_, phát sóng đàn hồi vào môi trường và bố trí thu trên mặt các _sóng phản xạ_
**Trường Phù thủy và Pháp sư Hogwarts** (tiếng Anh: _Hogwarts School of Witchcraft and Wizardry_) hay thường được gọi là **Hogwarts** () là một ngôi trường pháp thuật hư cấu trong bộ truyện Harry Potter
nhỏ|300x300px|Những đám mây xoáy vòng đầy màu sắc của Sao Mộc. Một ảnh chụp [[Vết Đỏ Lớn, dùng màu giả, từ Voyager 1. Cơn bão hình bầu dục màu trắng phía dưới Vết Đỏ Lớn
nhỏ|Tiếng Chuông xe đạp cổ điển **Xe đạp** là một loại phương tiện đơn hoặc đôi chạy bằng sức người hoặc gắn thêm động cơ trợ lực,điều khiển bằng bàn đạp,có hai bánh xe được
**Sukhoi Su-27** (; tên ký hiệu của NATO: **Flanker**) là một máy bay tiêm kích phản lực độc đáo của Liên Xô được thiết kế bởi Phòng thiết kế Sukhoi (SDB) và được sản xuất
**Electron** hay **điện tử**, là một hạt hạ nguyên tử, có ký hiệu là hay , mà điện tích của nó bằng trừ một điện tích cơ bản. Các electron thuộc về thế hệ thứ
**Tháng 3 năm 2021** là tháng thứ ba của năm hiện tại. Tháng bắt đầu vào Thứ Hai, sẽ kết thúc vào Thứ Tư sau 31 ngày. ## Thứ 2 ngày 1 * **Đảo chính
thumb|Chiếc container vận chuyển dài . Ở mỗi trong tám góc của nó, có một phần quan trọng được gọi là [[twistlock|corner casting để có thể kéo lên, xếp chồng và cố định.]] thumb|Các container
thumb|Bản đồ thể hiện các quốc gia sử dụng nhiều tiếng Indonesia. Xanh đậm = quốc gia, xanh nhạt = được nói bởi > 1%. thumb|Một người nói tiếng Indonesia được ghi âm ở [[Hà
:_Bài viết này có chứa ngày tháng tham khảo theo Lịch Julius đã cũ. Cần nhớ ngày tháng đó có thể không đồng nhất với Lịch Gregory._ **Sự kiện Tunguska** là một vụ nổ xảy
**Backstreet Boys** (đôi khi còn được gọi là **BSB**) là một ban nhạc của Hoa Kỳ đã từng được đề cử giải Grammy. Backstreet Boys đã từng đứng thứ 12 trong top 40 của bảng
nhỏ|[[Đồ thị Cayley của nhóm tự do có hai phần tử sinh. Đây là nhóm hyperbol có biên Gromov là tập Cantor. Tương tự với đồ thị Cayley, nhóm hyperbol và biên của nó là
Trang này dành cho tin tức về các sự kiện xảy ra được báo chí thông tin trong **tháng 6 năm 2020**. Tháng này, sẽ bắt đầu vào thứ hai, và kết thúc vào thứ
**Josiah Willard Gibbs** (11 tháng 2 năm 1839 - 28 tháng 4 năm 1903) là một nhà khoa học người Mỹ đã có những đóng góp lý thuyết đáng kể cho vật lý, hóa học