Tàu ngầm Kiểu _Kaidai_ (海大型潜水艦, Kaidai-gata sensuikan) là một lớp tàu ngầm hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản hoạt động trước và trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Tên lớp tàu là viết tắt của cụm từ - Tàu ngầm cỡ lớn của Hải quân.
Tất cả các tàu ngầm lớp Kaidai trước đây chỉ sử dụng số hiệu có hai chữ số, tính từ tàu ngầm I-51 trở đi. Từ ngày 20 tháng 5 năm 1942, tất cả các tàu ngầm lớp Kaidai đều được thêm số "1" vào trước số hiệu cũ của chúng. Ví dụ, I-52 được đổi thành I-152. Toàn bộ tàu đều thay thành số hiệu có ba chữ số nếu số hiệu cũ chỉ có một hoặc hai chữ số. Những tàu đã rời biên chế trước ngày 20 tháng 5 năm 1942 thì không được thay đổi số hiệu.
Các lớp tàu
Lớp tàu ngầm kiểu Kaidai được chia thành 7 phân lớp chính và 2 phân lớp phụ:
Kaidai I (lớp I-51)
nhỏ|200x200px|I-51 vào năm 1924
Dự án số S22. Nguyên mẫu của lớp. Con tàu duy nhất của lớp Kaidai I, I-51, được dựa trên thiết kế của tàu ngầm lớp K của Hải quân Hoàng gia Anh trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Con tàu được hoàn thành vào năm 1924, được nâng cấp lên động cơ mới vào năm 1932 và được tháo dỡ vào năm 1941. Con tàu không tham gia bất kỳ trận đánh nào trong Chiến tranh thế giới thứ hai.
Kaidai II (lớp I-152)
nhỏ|200x200px|I-152
Dự án số S25. Chỉ có duy nhất một tàu Kaidai II, I-152, được đóng theo Kế hoạch Hạm đội Tám-Sáu cùng với tàu I-51. Con tàu được hoàn thành vào năm 1924, và được sử dụng làm tàu huấn luyện đến giữa năm 1942, sau đó bị loại khỏi biên chế. Con tàu được tháo dỡ vào năm 1946.
Kaidai IIIa/b (lớp I-153 và lớp I-156)
nhỏ|I-158 vào năm 1927
Dự án số S26 (Kaidai IIIa) và S27 (Kaidai IIIb). Chín tàu Kaidai III được dựa theo những thiết kế trước đó, nhưng sử dụng thân tàu vững chắn hơn. Các tàu thuộc nhóm "IIIb" có thân tàu dài hơn 40 cm và mang thiết kế mũi tàu khác biệt. Toàn bộ chín tàu được đóng trong giai đoạn 1927-1930.
Trong số chín tàu của nhóm Kaidai III, bảy chiếc sống sót qua chiến tranh, do phần lớn chúng được sử dụng làm tàu huấn luyện. Toàn bộ số tàu này đều được đánh đắm sau khi chiến tranh kết thúc. I-63 bị chìm sau vụ tai nạn va chạm với tàu ngầm I-60 vào năm 1939. I-63 được trục vớt vào tháo dỡ vào năm 1940. I-60 sau đó bị đánh chìm bởi khu trục hạm HMS Jupiter.
Kaidai V (lớp I-165)
Dự án số S29. Có ba tàu lớp Kaidai V được đóng; I-165, I-166, và I-67, đều được hoàn thành trong năm 1932. Lớp này được nâng cấp pháo trên boong tàu, từ pháo nòng 50 caliber lên pháo đa dụng 65 caliber. Các con tàu được thiết kế rộng và cao hơn, nâng tổng số thành viên thủy thủ đoàn lên 75 và tăng mức lặn sâu lên 230 ft (70 m). I-165 được cải tiến vào năm 1945, bằng việc thay pháo trên boong tàu bằng hai máy phóng ngư lôi cảm tử Kaiten.
Không tàu nào trong nhóm Kaidai V sống sót qua chiến tranh. I-67 chìm với toàn bộ thủy thủ đoàn trong một buổi huấn luyện vào năm 1940. I-165 bị bắn chìm ngày 27 tháng 6 năm 1945 ở vùng biển phía đông đảo Saipan. I-166 bị tàu ngầm Anh bắn chìm ngày 17 tháng 7 năm 1944 ở ngoài khơi Singapore.
Nhóm Kaidai VI đã góp công đánh chìm hai hàng không mẫu hạm của Hải quân Hoa Kỳ trong chiến tranh. Ngoài ra, tàu ngầm I-70 là tàu chiến đầu tiên của Nhật Bản bị đánh chìm trong Chiến tranh thế giới thứ hai, và tàu ngầm I-73 là chiến công đầu tiên của lực lượng tàu ngầm Hoa Kỳ trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Các tàu được đóng theo Chương trình Mở rộng Trang bị Hải quân lần 4. Hải quân Nhật thường gọi lớp này là , và từng có ý định dùng để thay thế cho lớp Kaidai III và Kaidai IV. Thay vì lắp các ống phóng ngư lôi ở đuôi tàu như các lớp tiền nhiệm, lớp Kaidai VII đã đặt cả sáu ống phóng ở phần mũi tàu.
Bảy trong số 10 chiếc của nhóm Kaidai VII bị đánh chìm trong năm hoạt động đầu tiên và tháng 10 năm 1944, toàn bộ các tàu đều bị đánh chìm.
Thông số
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tàu ngầm Kiểu _Kaidai**_ (海大型潜水艦, _Kaidai-gata sensuikan_) là một lớp tàu ngầm hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản hoạt động trước và trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Tên lớp tàu
là một lớp tàu ngầm tuần dương của Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn giữa hai cuộc thế chiến. Lớp có tổng cộng bốn thiết kế nối tiếp nhau với
**_I-65_**, sau đổi tên thành **_I-165_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai V nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1932. Nó đã phục vụ trong
**_I-66_**, sau đổi tên thành **_I-166_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai V nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1932. Nó đã phục vụ trong
**_I-59_**, sau đổi tên thành **_I-159_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIB nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1929. Trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_I-56_**, sau đổi tên thành **_I-156_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIB nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1929. Trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_I-177_** (nguyên là **_tàu ngầm số 155_**, rồi **_I-77_** cho đến ngày 20 tháng 5, 1942) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc
**_I-185_** (nguyên mang tên **_I-85_**) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1943. Nó đã hoạt động trong Chiến
**_I-57_**, sau đổi tên thành **_I-157_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIB nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1929. Trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_I-64_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai IV nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1930. Nó đã phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_I-67_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai V nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1932. Nó bị mất do tai nạn trong một cuộc tập
**_I-176_** (nguyên là **_tàu ngầm số 154_**, rồi **_I-76_** cho đến ngày 20 tháng 5, 1942) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc
**_I-183_** (nguyên mang tên **_I-83_**) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1943. Nó đã hoạt động trong Chiến
**_I-184_** (nguyên mang tên **_I-84_**) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1943. Nó đã hoạt động trong Chiến
**_I-60_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIB nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1928. Nó liên can đến tai nạn va chạm vốn đã làm
**_I-182_** (nguyên mang tên **_I-82_**) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1943. Nó đã hoạt động trong Chiến
**_I-63_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIB nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1928. Nó bị mất sau tai nạn va chạm khi bị tàu
**_I-62_**, sau đổi tên thành **_I-162_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai IV nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1929. Nó đã phục vụ trong
**_I-178_** (nguyên là **_tàu ngầm số 156_**, rồi **_I-78_** cho đến ngày 20 tháng 5, 1942) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc
**_I-181_** (nguyên là **_Tàu ngầm số 159_** và **_I-81_**) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1943. Nó đã
**_I-179_** (nguyên là **_tàu ngầm số 157_**, rồi **_I-79_** cho đến ngày 1 tháng 11, 1941) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc
**_I-180_** (nguyên mang tên **_I-80_**) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào đầu năm 1943. Nó đã hoạt động trong
**_I-61_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai IV nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1929. Ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai, nó bị
**_I-15_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã
**_I-29_**, tên mã _Matsu_, là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm
**_I-23_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_I-26_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_I-35_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_I-36_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_I-19_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_I-32_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_I-38_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó đã từng tham
**_I-27_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_I-28_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó nhập biên chế năm 1942, nhưng
**_I-34_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_I-33_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_I-37_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó đã thực hiện
**_I-17_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã tham
**_I-30_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_I-39_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó đã từng hoạt
**_I-31_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
, sau đổi thành , là chiếc nguyên mẫu thứ hai của được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo sau cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất. Nhập biên chế năm 1925, nó
, nguyên là **_Tàu ngầm số 78_**, sau đổi tên thành , là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIA nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1927.
, nguyên là **_Tàu ngầm số 77_**, sau đổi tên thành , là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIA nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1927.
, nguyên là **_Tàu ngầm số 64_**, sau đổi tên thành , là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIA nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1927.
**_I-58_**, sau đổi tên thành **_I-158_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIA nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1928. Trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_I-73_** là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn,
**_I-69_**, sau đổi tên thành **_I-169_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**_I-71_**, sau đổi tên thành **_I-171_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một