✨I-38 (tàu ngầm Nhật)

I-38 (tàu ngầm Nhật)

I-38 là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó đã từng tham gia hoạt động trong các Chiến dịch New Guinea, quần đảo Solomon, và quần đảo Mariana, trước khi bị mất tích vào tháng 11, 1944, có thể bị tàu khu trục Hoa Kỳ đánh chìm gần Palau vào ngày 13 tháng 11, 1944.

Thiết kế và chế tạo

Thiết kế

Tàu ngầm Type B được cải tiến từ phân lớp KD6 của lớp tàu ngầm Kaidai dẫn trước, và được trang bị một thủy phi cơ nhằm tăng cường khả năng trinh sát. Chúng có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn, Nó được đổi tên thành I-38 vào ngày 1 tháng 11, 1941, Đến ngày 1 tháng 4, I-38 được điều về Hải đội Tàu ngầm 11. Tại Majuro những chiếc Ka-Tsu sẽ được cho đổ bộ vào vũng biển và tấn công tàu bè Đồng Minh bằng ngư lôi. Từ giữa tháng 5, Chiến dịch Tatsumaki bị buộc phải hoãn lại để khắc phục những khiếm khuyết của chiếc xe tăng lội nước, và cuối cùng bị hủy bỏ hoàn toàn.

Chuyến tuần tra thứ ba

I-38 xuất phát từ Kure vào ngày 18 tháng 5, mang theo một thủy phi cơ Yokosuka E14Y1 cho chuyến tuần tra thứ ba, hoạt động tại khu vực giữa Thái Bình Dương về phía Đông quần đảo Marshall đồng thời trinh sát trên không bên trên Kwajalein. Sau khi xuất phát, nó nhận mệnh lệnh đổi mục tiêu trinh sát sang to Majuro. Đến ngày 13 tháng 6, Đô đốc Toyoda Soemu, Tổng tư lệnh Hạm đội Liên hợp, ra lệnh tiến hành Chiến dịch A-Go để phòng thủ quần đảo Mariana, và chỉ thị cho Phó đô đốc Takagi Takeo, Tư lệnh Đệ Lục hạm đội, huy động mọi tàu ngầm dưới quyền đi đến khu vực Mariana. Khi Chiến dịch quần đảo Mariana bắt đầu với việc lực lượng Hoa Kỳ đổ bộ lên Saipan vào ngày 15 tháng 6, I-38 cùng các tàu ngầm I-6, I-10, I-41, I-53Ro-47 được lệnh tiếp tục tuần tra về phía Đông Mariana, trong khi phần còn lại của Đệ Lục hạm đội được lệnh rút lui khỏi khu vực.

Vào ngày 16 tháng 6, I-38 được điều động sang Đơn vị Tàu ngầm "A", và làm nhiệm vụ tuần tra về phía Đông quần đảo Mariana. Đến ngày 28 tháng 6, nó được lệnh tìm cách triệt thoái ban tham mưu Đệ Lục hạm đội khỏi Saipan, nhưng đã không thành công, và đô đốc Takagi hủy bỏ mọi nỗ lực di tản ban tham mưu của ông vào ngày 2 tháng 7. Nó được lệnh rút lui về Nhật Bản vào ngày 7 tháng 7, và về đến Sasebo vào ngày 16 tháng 7, nơi con tàu được tái trang bị, đồng thời được sơn phủ một lớp sơn chống radar.

Chuyến tuần tra thứ tư

Trong khi chiếc tàu ngầm còn đang ở lại Nhật Bản, Đô đốc Toyoda ra lệnh tiến hành Chiến dịch Shō-Gō vào ngày 13 tháng 10 để phòng thủ quần đảo Philippine. Sau khi hoàn tất việc tái trang bị, I-38 được điều về Đơn vị Tàu ngầm "B" vào ngày 18 tháng 10, rồi khởi hành từ Kure vào ngày hôm sau cho chuyến tuần tra thứ tư, cùng với chiếc I-41 hoạt động trong biển Philippine về phía Đông Philippines. Trận Leyte bắt đầu với việc lực lượng Đồng Minh đổ bộ lên đảo Leyte vào ngày 20 tháng 10, và cuộc phản công của Hải quân Nhật Bản đã đưa đến trận Hải chiến vịnh Leyte từ ngày 23 đến ngày 26 tháng 10. I-38 đi đến khu vực tuần tra ngoài khơi Leyte và Samar vào ngày 25 tháng 10, khi trận hải chiến lớn nhất Thế Chiến II lên đến đỉnh điểm, nhưng chiếc tàu ngầm đã không có hoạt động nào.

Đến ngày 5 tháng 11, I-38 được lệnh trinh sát đảo Ngulu thuộc quần đảo Caroline để xác định tình trạng tàu bè Đồng Minh neo đậu tại nơi đây, nhằm vạch kế hoạch cho các cuộc tấn công bằng ngư lôi tự sát Kaiten trong tương lai; việc trinh sát được lên kế hoạch vào ngày 11 tháng 11. Trên đường đi đến đảo Ngulu, I-38 gửi báo cáo vào ngày 7 tháng 11 phát hiện lực lượng đặc nhiệm Hoa Kỳ trong biển Philippine về phía Đông đảo Luzon. Sau đó chiếc tàu ngầm hoàn toàn mất liên lạc với căn cứ.

Bị mất

Vào ngày 12 tháng 11, 1944, tàu khu trục Hoa Kỳ , vốn đang cùng tàu khu trục hộ tống cho tàu tuần dương hạng nhẹ trong hành trình từ Ulithi đến Kossol Roads thuộc Palau, khi nó phát hiện một mục tiêu trên mặt nước qua radar ở khoảng cách lúc 20 giờ 03 phút. Nó tiếp cận mục tiêu và bắt đầu nả pháo điều khiển bằng radar, nhưng mục tiêu biến mất khỏi màn hình, xác nhận đó là một tàu ngầm vừa lặn xuống. Đến khoảng 22 giờ 30 phút, nó dò được tín hiệu sonar, và đã thả một loạt 18 quả mìn sâu để tấn công, và sau đó mất dấu mục tiêu. Khi dò lại được tín hiệu sonar của đối thủ lúc 00 giờ 30 phút ngày 13 tháng 11, Nicholas lại tiếp cận để chuẩn bị tiếp tục tấn công. Khi sonar nhận ra mục tiêu cơ động sang mạn trái để né tránh, chiếc tàu khu trục bẻ lái hết sang mạn trái bằng cách chạy lùi trục chân vịt bên mạn phải, nên gần như ngay bên trên chiếc chiếc tàu ngầm, và một loạt mìn sâu được thả xuống. Vài phút sau loạt mìn cuối cùng, một vụ nổ dữ dội dưới nước xảy ra tại tọa độ . Đến sáng, mảnh vỡ và xác người được tìm thấy tại khu vực, xác nhận tàu ngầm đối phương đã bị tiêu diệt, rất có thể đó là I-38.

Đến ngày 13 tháng 11, I-38 đã không gửi báo cáo theo thường lệ về Bộ chỉ huy Đệ Lục hạm đội. Vào ngày 6 tháng 12, 1944, Hải quân Đế quốc Nhật Bản công bố I-38 có thể đã bị mất với tổn thất toàn bộ 110 thành viên trên tàu tại khu vực Palau. Tên nó được cho rút khỏi đăng bạ hải quân vào ngày 10 tháng 3, 1945.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_I-38_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó đã từng tham
**_I-124_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 52_** và mang tên **_I-24_** từ năm 1927 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
**_I-372_** là một tàu ngầm vận tải thuộc lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-69_**, sau đổi tên thành **_I-169_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**_I-35_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_I-26_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_I-44_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944, nó từng thực
**_I-20_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã
là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã tham
**_I-30_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_I-53_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C3 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu ngầm
**_I-56_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944, nó hoạt động
**_I-64_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai IV nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1930. Nó đã phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_I-6_** là một tàu ngầm tuần dương, là chiếc duy nhất thuộc phân lớp của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, và có khả năng mang máy bay. Nhập biên chế năm 1935, _I-6_ đã
**_I-41_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó tham gia hoạt
**_I-363_** là một tàu ngầm vận tải thuộc lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-368_** là một tàu ngầm vận tải thuộc lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
Ít nhất hai tàu ngầm của Hải quân Đức từng được đặt cái tên **_U-38_**: * là một tàu ngầm hạ thủy năm 1914, phục vụ trong Thế Chiến I cho đến khi đầu hàng
**Tàu ngầm lớp I-15** (cũng được biết đến như tàu ngầm Kiểu B1) là loại tàu ngầm có số lượng lớn nhất mà Hải quân Hoàng gia Nhật Bản từng sử dụng trong chiến tranh
**Lớp tàu ngầm _Tambor**_ bao gồm mười hai tàu ngầm diesel-điện được Hải quân Hoa Kỳ đưa vào hoạt động ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Chúng là những tàu ngầm hạm đội
**_Lớp tàu ngầm Seawolf_** là một lớp tàu ngầm tấn công nhanh (SSN) sử dụng năng lượng hạt nhân, là lực lượng nòng cốt của đội tàu ngầm của Hải quân Liên bang Mỹ (USN).
**_U-36_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1936, nó đã thực
Đây là danh sách các tàu chiến thuộc Đế quốc Nhật Bản. ## Tàu chiến trung cổ * Atakebune, Tàu chiến cận bờ thế kỉ 16. * Châu Ấn Thuyền – Khoảng 350 tàu buồm
**Hải quân Đế quốc Nhật Bản** (kanji cổ: 大日本帝國海軍, kanji mới: 大日本帝国海軍, romaji: _Dai-Nippon Teikoku Kaigun_, phiên âm Hán-Việt: **_Đại Nhật Bản Đế quốc Hải quân_**), tên chính thức **Hải quân Đế quốc Đại Nhật
**USS _Wyman_ (DE-38)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Evarts_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu quân sự đầu tiên của
**_ Kinu_** (tiếng Nhật: 鬼怒) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Nagara_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Tên của nó được đặt theo sông Kinu trong tỉnh Tochigi của Nhật
**Lớp _Casablanca**_ là lớp tàu sân bay hộ tống với số lượng tàu sân bay lớn nhất từng được chế tạo, với năm mươi chiếc được đặt lườn, hạ thủy và nhập biên chế trong
Còn được gọi là **Kidō Butai** ("Lực lượng cơ động"), là tên được sử dụng cho một hạm đội tàu sân bay chiến đấu kết hợp bao gồm hầu hết các tàu sân bay và
**Lớp tàu tuần dương _Atlanta**_ là một lớp tám tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Hoa Kỳ, nguyên được thiết kế để hoạt động như những tàu tuần dương tuần tiễu nhanh hay
**_Hiryū_** (**Nhật**: 飛龍, _Phi Long_) là một tàu sân bay thuộc lớp Sōryū được cải biến của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó là một trong những tàu sân bay Nhật đã mở đầu
**Lớp tàu khu trục _Gearing**_ bao gồm 98 tàu khu trục được Hải quân Hoa Kỳ trong và ngay sau Chiến tranh Thế giới thứ hai. Lớp _Gearing_ có những cải tiến nhỏ so với
**_Kongō_** (tiếng Nhật: 金剛, Kim Cương) là chiếc tàu chiến-tuần dương đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc kiểu siêu-Dreadnought, là chiếc dẫn đầu của lớp Kongō bao gồm những chiếc _Hiei_,
nhỏ|300x300px| nhỏ|upright|Tàu khu trục , một chiếc thuộc của [[Hải quân Hoa Kỳ.]] **Tàu khu trục**, hay còn gọi là **khu trục hạm**, (tiếng Anh: _destroyer_) là một tàu chiến chạy nhanh và cơ động,
nhỏ|250x250px|Hàng không mẫu hạm lớn nhất thế giới. Nhân viên điều hành trên tháp quan sát của chiếc [[USS Ronald Reagan của Hoa Kỳ.|thế=]] **Tàu sân bay** (tiếng Anh: _aircraft carrier_), hay **hàng không mẫu
**USS _San Francisco_ (CA-38)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _New Orleans_, là chiếc tàu chiến thứ hai được đặt tên theo thành phố San Francisco thuộc
nhỏ|phải|[[HMS Hood (51)|HMS _Hood_, tàu chiến-tuần dương lớn nhất từng được chế tạo, lớn hơn mọi thiết giáp hạm Anh Quốc cho đến khi chiếc HMS _Vanguard_ đưa ra hoạt động vào năm 1946. Nó
**_Hatsuzuki_** (tiếng Nhật: 初月 - _Sơ Nguyệt)_ là một khu trục hạm lớp _Akizuki_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Là con tàu thứ tư của lớp _Akizuki_, _Hatsuzuki_ đã tham chiến tích cực
nhỏ|243x243px|Tàu lửa SPT1 với đầu máy [[Đầu máy Đổi mới (D19E) tại Ga Phan Thiết, Bình Thuận.]] nhỏ|Một [[Vận tải hàng hóa đa phương thức|chuyến tàu chở hàng liên phương thức BNSF đi qua Wisconsin,
**_Tama_** (tiếng Nhật: 多摩) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Kuma_ từng hoạt động cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên của nó được
**Lớp tàu sân bay _Graf Zeppelin**_ là hai tàu sân bay của Hải quân Đức được đặt lườn vào giữa những năm 1930 như một phần của Kế hoạch Z nhằm tái vũ trang. Bốn
**Lớp tàu sân bay _Courageous**_, đôi khi còn được gọi là **lớp _Glorious_**, là lớp nhiều chiếc tàu sân bay đầu tiên phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Ba chiếc trong lớp
**_Haruna_** (tiếng Nhật: 榛名, được đặt theo tên đỉnh núi Haruna), là một thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản từng hoạt động trong Chiến tranh thế giới thứ nhất và chiến
**_Graf Zeppelin_** là tàu sân bay duy nhất của Đức được hạ thủy trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, tiêu biểu phần nào cho những nỗ lực của Hải quân Đức để tạo ra
**Lớp tàu khu trục L và M** là một lớp bao gồm 16 tàu khu trục được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào cuối những năm 1930 và đã phục vụ trong
Đế quốc Nhật Bản. Cho tới trước khi [[Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, thuộc địa của Nhật tại vùng Đông Á đã tăng gấp gần **5 lần** diện tích quốc gia]] là
**Chiến tranh Nga–Nhật** hay **Nhật-Nga chiến tranh** (tiếng Nhật: 日露戦争 _Nichi-Ro Sensō_, âm Hán Việt: "Nhật Lộ chiến tranh"; tiếng Nga: Русско-японская война, "Russko-yaponskaya voina"; tiếng Trung: 日俄戰爭 _Rì'ézhànzhēng_, "Nhật Nga chiến tranh") là một
**Lớp tàu khu trục _Momo**_ (tiếng Nhật: 桃型駆逐艦 - Momogata kuchikukan) là một lớp bao gồm bốn tàu khu trục hạng nhì của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được chế tạo trong giai đoạn
**USS _Wasp_ (CV/CVA/CVS-18)** là một trong số 24 tàu sân bay thuộc lớp _Essex_ được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ trong Thế Chiến II, và là chiếc tàu chiến thứ chín của Hải
**USS _Uhlmann_ (DD-687)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
là tên gọi cuộc triệt thoái của quân Nhật ra khỏi đảo Guadalcanal diễn ra từ ngày 14 tháng 1 đến 7 tháng 2 năm 1943. Cuộc triệt thoái này được tiến hành với sự