✨I-44 (tàu ngầm Nhật)

I-44 (tàu ngầm Nhật)

I-44 là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944, nó từng thực hiện ba chuyến tuần tra trong chiến tranh, trước khi được cải biến thành tàu ngầm mang ngư lôi tự sát Kaiten để tham gia các trận Iwo Jima và Okinawa. I-44 đã mất tích sau ngày 4 tháng 4, 1945, có thể đã bị máy bay từ tàu sân bay hộ tống Hoa Kỳ đánh chìm gần Okinawa vào ngày 29 tháng 4, 1945.

Thiết kế và chế tạo

Thiết kế

Tàu ngầm Type B Cải tiến 1 (lớp I-40) (còn gọi là Type B2) được cải tiến từ Type B1 dẫn trước, có trọng lượng hơi lớn hơn và trang bị động cơ diesel có thiết kế đơn giản hơn nhằm thúc đẩy việc chế tạo. Nó được đổi tên thành I-44 vào ngày 5 tháng 2, 1943, Tại đây số xe tăng này sẽ được thà xuống nước, đổ bộ lên đảo san hô, rồi băng qua đảo để xâm nhập vũng biển, nơi chúng phóng ngư lôi tấn công hạm đội đối phương tại nơi neo đậu. cuối cùng bị hủy bỏ hoàn toàn.

Chuyến tuần tra thứ hai

I-44 khởi hành từ Kure vào ngày 15 tháng 5, cùng với các tàu ngầm I-41I-53 thực hiện chuyến tuần tra thứ hai ngoài khơi quần đảo Bismarck về phía Đông Bắc New Ireland và phía Bắc Kavieng. Vào ngày 27 tháng 5I-44 đang vận hành radar phòng không của nó ở tọa độ , khi một máy bay tuần tra Đồng Minh bất ngờ tấn công với các quả bom ném suýt trúng; không thể xác định radar của I-44 gặp khiếm khuyết hay do thủy thủ đoàn chưa có kinh nghiệm trong huấn luyện và vận hành radar. Chiếc tàu ngầm phải lặn khẩn cấp để ẩn nấp, và thêm nhiều tàu tuần tra đối phương xuất hiện và tấn công. Nó thoát được nhưng bị hư hại kính tiềm vọng, bảng mạch điện chính cùng nhiều thiết bị cũng như bị rò rỉ phía mũi tàu. I-44 tiếp tục đụng độ với một thủy phi cơ tuần tra-ném bom PB4Y-2 Privateer gần đó, nhưng không thể lặn, nên tìm cách ẩn náu trong một cơn mưa giông. Nó về đến Kure vào ngày 5 tháng 6, và được sửa chữa.

Chuyến tuần tra thứ ba

Tổng tư lệnh Hạm đội Liên hợp, Đô đốc Soemu Toyoda, kích hoạt Kế hoạch Shō-Gō 1 nhằm phòng thủ quần đảo Philippines từ ngày 13 tháng 10. Do đó sau khi hoàn tất việc sửa chữa, I-44 xuất phát từ Kure vào ngày 19 tháng 10 cho chuyến tuần tra thứ ba, được phân công tuần tra về phía Đông Philippines và ngoài khơi đảo Leyte trong thành phần Đội tàu ngầm "B", vốn còn bao gồm các tàu ngầm I-38, Ro-42Ro-43. Nó đang di chuyển trong eo biển Ba Sĩ lúc trời tối ngày 20 tháng 10, khi gặp phải sự cố nổ bình khí nén trong hệ thống thùng dằn cân bằng tàu, khiến ba thủy thủ thiệt mạng, làm hỏng la bàn con quay hồi chuyển, và khiến một trục chân vịt không hoạt động. Chiếc tàu buộc phải quay trở về Nhật Bản để sửa chữa, đi đến Kure vào ngày 22 tháng 10.

Cải biến thành tàu ngầm mang ngư lôi Kaiten

Là chiếc tàu ngầm Type B2 còn sống sót sau cùng, I-44 được chọn để cải biến thành tàu ngầm mang ngư lôi tự sát Kaiten. Trong quá trình cải biến, khẩu hải pháo trên boong tàu được tháo dỡ, lấy chỗ lắp đặt các bộ gá nhằm chuyên chở bốn ngư lôi Kaiten phía sau tháp chỉ huy; đồng thời hầm chứa cùng máy phóng máy bay cũng được tháo dỡ khỏi boong phía trước, lấy chỗ để mang thêm hai ngư lôi Kaiten nữa. Ngoài ra con tàu còn được trang bị radar Type 22 dò tìm mặt biển.

I-44 thoạt tiên dự định được phái tham gia hoạt động Kaiten đầu tiên vào đầu tháng 11, 1944, nhưng ý định này bị hủy bỏ. Đến đầu tháng 2, 1945, con tàu được điều đến căn cứ Kaiten Otsujima, bên bờ biển nội địa Seto tại Yamaguchi, để bắt đầu huấn luyện cùng các tàu ngầm I-368I-370.

1945

Nhiệm vụ Kaiten thứ nhất

Vào ngày 19 tháng 2, Trận Iwo Jima bắt đầu với việc lực lượng Hoa Kỳ đổ bộ lên hòn đảo này. Trong ngày hôm đó, I-44 cùng với I-368I-370 được phân về Đội Kaiten Chihaya với nhiệm vụ tấn công tàu bè Đồng Minh tại khu vực này. I-44 là tàu ngầm cuối cùng trong Đội lên đường, xuất phát từ căn cứ Otsujima lúc 09 giờ 00 ngày 22 tháng 2 cho nhiệm vụ Kaiten đầu tiên trong chiến tranh. Nó đang đi trên mặt nước để nạp điện cho ắc-quy ở vị trí về phía Tây Nam Iwo Jima vào ngày 25 tháng 2, khi bị hai hoặc ba tàu khu trục hay tàu săn ngầm đối phương phát hiện và truy đuổi. I-44 phải lặn dưới nước suốt 47 giờ, cho đến khi mức carbon dioxide trong tàu lên đến 6%, trước khi thoát được và trồi lên mặt nước an toàn.

I-44 đi đến khu vực tuần tra về phía Nam Iwo Jima vào cuối ngày 26 tháng 2. Đến ngày 28 tháng 2, nó tìm cách tiếp cận trên mặt nước từ phía Đông hòn đảo, nhưng bị một máy bay tấn công nên buộc phải lặn xuống và rút lui. Hạm trưởng I-44 gửi một báo cáo vào ngày 1 tháng 3 cho Phó đô đốc Shigeyoshi Miwa Tư lệnh Đệ Lục hạm đội, về dự định rút lui về khu vực Oki Daitō thuộc quần đảo Daitō về phía Đông Nam Okinawa. Đến ngày 6 tháng 3, Đệ Lục hạm đội hủy bỏ mọi hoạt động tàu ngầm tại khu vực Iwo Jima, và I-44 lên đường quay trở về Nhật Bản. Nó tháo dỡ các ngư lôi Kaiten cùng hoa tiêu tại căn cứ Otsujima vào ngày 9 tháng 3, và đi đến Kure vào ngày 11 tháng 3. Tại đây Thiếu tá Hải quân Masuzawa Seishi tiếp nhận quyền chỉ huy I-44 từ ngày 17 tháng 3.

Nhiệm vụ Kaiten thứ hai

Từ ngày 26 đến ngày 29 tháng 3, 1945, lực lượng Hoa Kỳ đổ bộ lên quần đảo Kerama về phía Tây Nam Okinawa nhằm chiếm một căn cứ tiền phương chuẩn bị cho việc chiếm đóng chính Okinawa. Vào ngày 27 tháng 3, Đội Kaiten Tatara, vốn bao gồm I-44 và các tàu ngầm I-47, I-56I-58 được thành lập để tấn công tàu bè Đồng Minh tại Okinawa. Sau khi Trận Okinawa chính thức bắt đầu vào ngày 1 tháng 4, I-44 được lệnh lên đường hai ngày sau đó trong thành phần Đội Tatara; nó rời Otsujima vào ngày 4 tháng 4, mang theo bốn thành viên tổ lái Kaiten từng tham gia hoạt động cùng I-44 trong Đội Chihaya. Đến ngày 21 tháng 4, Bộ chỉ huy Đệ Lục hạm đội ra lệnh cho I-44 quay trở về Nhật Bản, nhưng chiếc tàu ngầm đã không hồi đáp.

Bị mất

I-44 bị mất vào một lúc nào đó sau ngày 4 tháng 4, nhưng nguyên nhân vẫn còn là một bí ẩn. Một số sử gia Nhật Bản cho rằng đội tìm-diệt tàu ngầm hình thành chung quanh tàu sân bay hạng nhẹ đã đánh chìm I-44 vào ngày 18 tháng 4, nhưng nhiều khả năng mục tiêu bị đánh chìm là chiếc I-56.

Vào ngày 29 tháng 4, một máy bay TBM Avenger thuộc Liên đội Hỗn hợp VC-92 xuất phát từ tàu sân bay hộ tống đang tuần tra ở vị trí khoảng về phía Đông Nam Okinawa. Lúc 14 giờ 18 phút, trong khi đang bay ở độ cao , nó phát hiện một tàu ngầm Nhật Bản đang đi trên mặt nước, nên bổ nhào xuống để tấn công. Khi chiếc tàu ngầm lặn khẩn cấp để né tránh, chiếc Avenger thả một quả mìn sâu xuống phát nổ bên cạnh tháp chỉ huy chiếc tàu ngầm. Trong lượt tấn công thứ hai, chiếc Avenger phóng một quả ngư lôi dò âm Mark 24 "Fido", đánh trúng thân chiếc tàu ngầm, nhiều khả năng là I-44, khiến mục tiêu đắm tại tọa độ .

Vào ngày 2 tháng 5, 1945, Hải quân Đế quốc Nhật Bản công bố I-44 có thể đã bị mất tại khu vực Okinawa với tổn thất toàn bộ 130 thủy thủ và bốn thành viên tổ lái Kaiten. Tên nó được cho rút khỏi đăng bạ hải quân vào ngày 10 tháng 6, 1945.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_I-44_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944, nó từng thực
**_I-183_** (nguyên mang tên **_I-83_**) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1943. Nó đã hoạt động trong Chiến
**_I-122_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 49_** và mang tên **_I-22_** từ năm 1926 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
**_I-185_** (nguyên mang tên **_I-85_**) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1943. Nó đã hoạt động trong Chiến
**_I-123_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 50_** và mang tên **_I-23_** từ năm 1927 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
**_I-36_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_I-58_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Đang khi chế tạo, nó được cải biến
**_I-3_** là một tàu ngầm tuần dương lớp bao gồm bốn chiếc có trọng lượng choán nước lên đến 2.135 tấn, được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến
**_I-6_** là một tàu ngầm tuần dương, là chiếc duy nhất thuộc phân lớp của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, và có khả năng mang máy bay. Nhập biên chế năm 1935, _I-6_ đã
**_I-53_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C3 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu ngầm
**_I-27_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_I-47_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C2 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-56_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944, nó hoạt động
**_I-370_** là một tàu ngầm vận tải thuộc lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
, nguyên mang tên **_Đề án S22_** và **_Tàu ngầm số 44_**, là một tàu ngầm trong biên chế của Hải quân Đế quốc Nhật Bản từ năm 1924 đến năm 1938. Cho dù không
**_I-368_** là một tàu ngầm vận tải thuộc lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-16_** là một tàu ngầm tuần dương, là chiếc dẫn đầu của lớp Type C được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế
Ít nhất hai tàu ngầm của Hải quân Đức từng được đặt cái tên **_U-44_**: * là một tàu ngầm hạ thủy năm 1914, phục vụ trong Thế Chiến I và bị đánh chìm năm
_U-161_ là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type IXC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
là một lớp tàu ngầm hạng nhất phục vụ cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Những tàu ngầm _Type C_ được trang bị vũ khí mạnh hơn
Tên tàu Nhật tuân theo các quy ước khác nhau từ những quy ước điển hình ở phương Tây. Tên tàu buôn thường chứa từ _maru_ ở cuối (nghĩa là _vòng tròn_), trong khi tàu
Đây là danh sách các tàu chiến thuộc Đế quốc Nhật Bản. ## Tàu chiến trung cổ * Atakebune, Tàu chiến cận bờ thế kỉ 16. * Châu Ấn Thuyền – Khoảng 350 tàu buồm
**_ Kinu_** (tiếng Nhật: 鬼怒) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Nagara_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Tên của nó được đặt theo sông Kinu trong tỉnh Tochigi của Nhật
**USS _Vincennes_ (CA-44)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _New Orleans_, là chiếc tàu chiến thứ hai được đặt tên theo thành phố Vincennes thuộc tiểu bang
**Tàu khu trục lớp Kongō** (tiếng Nhật: こんごう型護衛艦) là lớp tàu khu trục mang tên lửa có điều khiển (DDG) đầu tiên của Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF) được chế tạo
**Lớp tàu khu trục _Gearing**_ bao gồm 98 tàu khu trục được Hải quân Hoa Kỳ trong và ngay sau Chiến tranh Thế giới thứ hai. Lớp _Gearing_ có những cải tiến nhỏ so với
nhỏ|250x250px|Hàng không mẫu hạm lớn nhất thế giới. Nhân viên điều hành trên tháp quan sát của chiếc [[USS Ronald Reagan của Hoa Kỳ.|thế=]] **Tàu sân bay** (tiếng Anh: _aircraft carrier_), hay **hàng không mẫu
nhỏ|phải|[[HMS Hood (51)|HMS _Hood_, tàu chiến-tuần dương lớn nhất từng được chế tạo, lớn hơn mọi thiết giáp hạm Anh Quốc cho đến khi chiếc HMS _Vanguard_ đưa ra hoạt động vào năm 1946. Nó
nhỏ|388x388px|Tàu tuần dương _Frunze_ thuộc [[Tàu tuần dương hạng nặng lớp Kirov|lớp _Kirov_ của Hải quân Nga]] **Tàu tuần dương**, còn được gọi là **tuần dương hạm**, là một loại tàu chiến lớn, có vai
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Lion**_ bao gồm hai tàu chiến-tuần dương được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Mang biệt danh "Splendid Cats", Nó đã đánh
**_Hatsuzuki_** (tiếng Nhật: 初月 - _Sơ Nguyệt)_ là một khu trục hạm lớp _Akizuki_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Là con tàu thứ tư của lớp _Akizuki_, _Hatsuzuki_ đã tham chiến tích cực
**_Ise_** (), là chiếc dẫn đầu của lớp _Ise_ gồm hai chiếc thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, từng tham gia hoạt động tại mặt trận Thái Bình Dương trong Thế
Đế quốc Nhật Bản. Cho tới trước khi [[Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, thuộc địa của Nhật tại vùng Đông Á đã tăng gấp gần **5 lần** diện tích quốc gia]] là
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Invincible**_ bao gồm ba chiếc được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc và được đưa ra hoạt động vào năm 1908 như những tàu chiến-tuần dương đầu tiên
**Lớp tàu tuần dương _Prinz Adalbert**_ là một lớp tàu tuần dương bọc thép được Hải quân Đế quốc Đức (Kaiserliche Marine) chế tạo vào đầu những năm 1900. Hai chiếc thuộc lớp này đã
**Kinh tế Nhật Bản** là một nền kinh tế thị trường tự do phát triển. Nhật Bản là nền kinh tế lớn thứ ba thế giới theo GDP danh nghĩa và lớn thứ tư theo
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Moltke**_ là một lớp gồm hai tàu chiến-tuần dương "toàn-súng lớn" được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong những năm 1909–1911. Gồm hai chiếc SMS _Moltke_ và SMS _Goeben_,
**USS _Burden R. Hastings_ (DE-19)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Evarts_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất
**Tàu tuần tra tên lửa lớp Hayabusa** (tiếng Nhật: **はやぶさ型ミサイル艇**) là một lớp tàu tuần tra mang tên lửa thuộc Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF), do Nhà máy đóng tàu Shimonoseki
**USS _Tennessee_ (BB-43)** là một thiết giáp hạm của Hải quân Hoa Kỳ trong Thế chiến II, là chiếc dẫn đầu trong lớp tàu của nó, và là chiếc tàu chiến thứ ba của hải
**USS _Bagley_ (DD-386)** là một tàu khu trục, chiếc dẫn đầu của lớp _Bagley_, được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải
**HMS _Ramillies_ (07)** là một thiết giáp hạm thuộc lớp _Revenge_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Tên của nó được đặt theo trận Ramillies. _Ramillies_ từng hoạt động trong cả Chiến tranh Thế
**USS _Waller_ (DD-466/DDE-466)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS _Helm_ (DD-388)** là một tàu khu trục lớp _Bagley_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được
**USS _Aylwin_ (DD-355)** là một tàu khu trục lớp _Farragut_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn giữa hai cuộc thế chiến. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân
**Chiến tranh Nga–Nhật** hay **Nhật-Nga chiến tranh** (tiếng Nhật: 日露戦争 _Nichi-Ro Sensō_, âm Hán Việt: "Nhật Lộ chiến tranh"; tiếng Nga: Русско-японская война, "Russko-yaponskaya voina"; tiếng Trung: 日俄戰爭 _Rì'ézhànzhēng_, "Nhật Nga chiến tranh") là một
Dưới đây là sự kiện trong năm tại **Nhật Bản 2023**. ## Đương nhiệm ## Sự kiện ### Tháng 1 *1 tháng 1: **Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản (Nhật Bản) xác nhận
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Derfflinger**_ là một lớp bao gồm ba tàu chiến-tuần dương của Hải quân Đế quốc Đức. Các con tàu này được đặt hàng trong Kế hoạch Chế tạo Hải quân 1912-1913
**Trận tấn công Trân Châu Cảng** (hay **Chiến dịch Hawaii** và **Chiến dịch AI** của Hawaii, và **Chiến dịch Z** theo cách gọi của Bộ Tổng tư lệnh Đế quốc Nhật Bản) là một cuộc
**Lớp thiết giáp hạm _North Carolina**_ là một lớp bao gồm hai thiết giáp hạm, _North Carolina_ và _Washington_, được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ vào cuối thập niên 1930 và đầu thập