✨I-58 (tàu ngầm Nhật) (1943)

I-58 (tàu ngầm Nhật) (1943)

I-58 là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Đang khi chế tạo, nó được cải biến thành tàu ngầm mang ngư lôi tự sát Kaiten, và sau khi nhập biên chế năm 1944, nó tham gia nhiều hoạt động mà đáng kể nhất là đã đánh chìm tàu tuần dương hạng nặng vào ngày 30 tháng 7, 1945. I-58 đã sống sót qua cuộc xung đột, đầu hàng lực lượng Đồng Minh, và cuối cùng bị đánh đắm ngoài khơi quần đảo Goto vào ngày 1 tháng 4, 1946.

Thiết kế và chế tạo

Thiết kế

Tàu ngầm Type B Cải tiến 2 (lớp I-54) (còn gọi là Type B3) được cải tiến từ Type B2 dẫn trước, có công suất động cơ diesel giảm đáng kể để nâng cao tầm xa hoạt động. Nó được đổi tên thành I-58 vào ngày 31 tháng 7, 1943,

Chiến dịch Tan số 2

Sau khi lực lượng Hoa Kỳ đổ bộ lên Iwo Jima vào tháng 2, I-58 cùng với I-36 gia nhập Đội Kaiten Shimbu để phản công. Nó mang theo bốn chiếc Kaiten khi khởi hành từ Kure vào ngày 1 tháng 3, nhưng kế hoạch phản công bị hủy bỏ vào ngày 7 tháng 3. Hai ngày sau đó, nó được lệnh đi đến khu vực phía Tây Okino Tori-shima để hỗ trợ cho Chiến dịch Tan số 2, một kế hoạch không kích tự sát vào hạm đội Hoa Kỳ đang neo đậu tại Ulithi. I-58 phóng bỏ hai chiếc Kaiten rồi di chuyển hết tốc độ, đi đến ngoài khơi Okino Tori-shima vào ngày 11 tháng 3, nơi nó phục vụ như cột mốc vô tuyến dẫn đường cho 24 máy bay ném bom Kamikaze Yokosuka P1Y1 xuất phát từ Kyūshū. Chỉ có sáu thủy phi cơ bay đến được Ulithi, và một chiếc đâm bổ xuống tấn công tự sát đã gây hư hại cho tàu sân bay .

Chiến dịch Ten-Go

Sau khi quay trở lại Kure để tiếp tục huấn luyện, I-58 cùng với I-44, I-47I-56 gia nhập Đội Kaiten Tatara để tấn công tàu bè Đồng Minh trong khuôn khổ Chiến dịch Ten-Go. I-58 đã không thể xâm nhập qua hàng rào phòng thủ chống tàu ngầm nên buộc phải quay trở về Kyūshū vào ngày 10 tháng 4 để nạp điện lại ắc-quy. Nó tìm cách xâm nhập một lần nữa, nhưng liên tục bị máy bay đối phương tấn công, rồi được lệnh đi đến khu vực giữa Okinawa và Guam vào ngày 14 tháng 4 nhưng vẫn không thành công. Chiến dịch bị hủy bỏ vào ngày 17 tháng 4 và I-58 quay trở về Kure vào ngày 30 tháng 4.

Sang tháng 5, I-58 đi đến Xưởng vũ khí Hải quân Kure để được tái trang bị, bao gồm việc trang bị ống hơi. Hầm chứa máy bay cùng máy phóng dành cho thủy phi cơ được tháo dỡ khỏi sàn phía trước, lấy chỗ để mang thêm hai ngư lôi Kaiten, khiến nó có thể mang tổng cộng sáu chiếc Kaiten. Vào ngày 22 tháng 6, 162 máy bay ném bom B-29 Superfortress thuộc Không lực 20 Hoa Kỳ đã ném bom xuống căn cứ hải quân Kure; nhiều quả bom đã vây quanh I-58, nhưng nó tránh khỏi bị hư hại.

I-58 sau đó được chọn để gia nhập Đội Kaiten Tamon cùng các tàu ngầm I-47, I-53, I-363, I-366I-367, rồi nó lên đường vào chiều tối ngày 18 tháng 7 để đi sang khu vực tuần tra về phía Đông Philippines. Đến ngày 28 tháng 7, ở vị trí về phía Bắc Palau, nó phát hiện tàu chở hàng SS Wild Hunter được tàu hộ tống khu trục tháp tùng bảo vệ. Hai Kaiten được phóng ra để tấn công, nhưng Wild Hunter nhìn thấy một kính tiềm vọng nên tấn công bằng pháo 3-inch, và kính tiềm vọng biến mất. Harris dò được tín hiệu sonar một tàu ngầm, nên tung ra nhiều lượt tấn công bằng mìn sâu và súng cối chống ngầm Hedgehog từ chiều tối ngày 28 tháng 7 và kéo dài sang sáng ngày 29 tháng 7 mà không đem lại kết quả rõ rệt, trước khi tín hiệu sonar biến mất. Trong khi đó I-58 nghe thấy hai tiếng nổ, nhưng một cơn mưa giông đã che khuất tầm nhìn nên không thể xác định kết quả. Khi I-58 cuối cùng trồi lên mặt nước, nó không phát hiện được tàu bè nào qua radar, nên tự nhận đã đánh chìm cả hai mục tiêu.

Đánh chìm USS Indianapolis

I-58 trồi lên mặt nước lúc 23 giờ 00 ngày 29 tháng 7 ở vị trí về phía Bắc Palau và di chuyển xuống phía Nam. Không lâu sau đó nó phát hiện một hạm tàu lớn đang di chuyển từ phía Đông với tốc độ và không chạy zig-zag. Thiếu tá Hashimoto hạm trưởng I-58, nhận định nhầm mục tiêu là một thiết giáp hạm lớp Idaho, nhưng thực ra đó là tàu tuần dương hạng nặng đang trong hành trình đi từ Guam đến Leyte, sau khi hoàn tất một nhiệm vụ tối mật là vận chuyển từ San Francisco linh kiện và vật liệu cho các quả bom nguyên tử sắp được ném xuống Hiroshima và Nagasaki.

I-58 lặn xuống và chuẩn bị tấn công bằng ngư lôi Type 95. Sau khi cơ động đến vị trí tấn công thuận lợi, lúc 23 giờ 26 phút (giờ Nhật Bản) nó phóng một loạt sáu quả ngư lôi tấn công với giãn cách 2 giây. Đến 23 giờ 35 phút, Thiếu tá Hashimoto chứng kiến hai quả ngư lôi đánh trúng Indianapolis bên mạn phải. Chiếc tàu tuần dương chết đứng, nghiêng sang mạn phải và chìm xuống phần mũi; nhưng Hashimoto quyết định phải chắc chắn kết liễu đối phương, nên lặn xuống độ sâu , nới rộng khoảng cách và nạp lại các ống phóng ngư lôi. Tuy nhiên, Indianapolis đã lật úp và đắm lúc 00 giờ 27 phút ngày 30 tháng 7, tại tọa độ . Khi I-58 quan sát qua kính tiềm vọng, mục tiêu đã biến mất, nên chiếc tàu ngầm trở lên mặt nước và rút lui hết tốc độ về phía Bắc đồng thời nạp điện lại ắc-quy.

Tấn công Đội đặc nhiệm 75.19

Vào sáng ngày 9 tháng 8, ở vị trí về phía Đông Bắc Aparri, Luzon, I-58 phát hiện một "đoàn tàu bao gồm 10 tàu vận tải" đang chạy zig-zag và được ba tàu khu trục hộ tống; các Kaiten số 4 và số 5 đã được phóng ra để tấn công. Mục tiêu thực ra là Đội đặc nhiệm 75.19, đơn vị tìm-diệt tàu ngầm hình thành chung quanh tàu sân bay hộ tống , đang càn quét chống tàu ngầm tại vùng biển giữa Leyte và Okinawa. Tàu hộ tống khu trục đã phát hiện và tấn công Kaiten số 5, đánh chìm mục tiêu bằng hải pháo 5-inch phía đuôi tàu. Johnnie Hutchins tiếp tục phát hiện thấy Kaiten số 4 khoảng một giờ sau đó và thả mìn sâu tấn công, phá hủy mục tiêu với một vụ nổ lớn.

Tấn công Oak HillThomas F. Nickel

thumb|Phòng ngư lôi phía mũi của I-58, tại Sasebo vào năm 1946, trước khi bị đánh đắm. Lúc khoảng 17 giờ 00 ngày 12 tháng 8, ở vị trí về phía Đông Nam Okinawa, trong khi I-58 di chuyển trên mặt nước theo hướng Bắc với vận tốc , máy dò radar Type 3 của nó phát hiện nhiều sóng radar, rồi nhiều tàu xuất hiện phía chân trời. Chiếc tàu ngầm lặn xuống, và đến 17 giờ 16 phút tin rằng đã phát hiện một tàu chở thủy phi cơ được một tàu khu trục hộ tống, và Kaiten số 3 được phóng lúc 17 giờ 58 phút từ khoảng cách . Thực ra, "tàu chở thủy phi cơ" chỉ là chiếc tàu đốc đổ bộ , được tàu hộ tống khu trục tháp tùng để bảo vệ trong hành trình từ Okinawa đi Leyte. Đến 18 giờ 26 phút, Oak Hill nhìn thấy một kính tiềm vọng, và Thomas F. Nickel mở hết tốc độ để áp sát mục tiêu, thả mìn sâu rồi húc vào mục tiêu; một chiếc Kaiten trồi lên mặt nước về phía đuôi Oak Hill và nổ tung. Đến 19 giờ 05 phút Thomas F. Nickel nhìn thấy một kính tiềm vọng khác về phía đuôi Oak Hill nên lại thả mìn sâu tấn công. Một vụ nổ lớn xảy ra, tung lên một cột nước và dầu cao đến , và sau đó xuất hiện một vệt dầu loang.

Cuối chiến tranh - Bị loại bỏ

Trong lúc I-58 đang trên đường quay trở về Nhật Bản, Thế Chiến II kết thúc vào ngày 15 tháng 8, 1945, khi Thiên hoàng Chiêu Hòa Hirohito công bố qua đài phát thanh mệnh lệnh đình chỉ chiến sự giữa Nhật Bản và Đồng Minh. Chiếc tàu ngầm về đến Kure vào ngày 18 tháng 8, và đầu hàng lực lượng Đồng Minh tại đây trong tháng 9, sau khi văn kiện đầu hàng được ký kết trên thiết giáp hạm neo đậu trong vịnh Tokyo vào ngày 2 tháng 9.

Sau khi đã tháo dỡ mọi thiết bị và vật liệu có giá trị, I-58 di chuyển từ Kure đến Sasebo trong tháng 11. Tên nó được cho rút khỏi đăng bạ hải quân vào ngày 30 tháng 11, 1945. Trong khuôn khổ Chiến dịch Road's End, tàu tiếp liệu tàu ngầm Hoa Kỳ đã kéo I-367 từ Sasebo đến khu vực ngoài khơi quần đảo Gotō vào ngày 1 tháng 4, 1946. Tại đây cùng với một số tàu ngầm Nhật Bản khác, nó bị đánh chìm bằng chất nổ và đắm tại tọa độ .

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_I-58_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Đang khi chế tạo, nó được cải biến
**_I-56_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944, nó hoạt động
**_I-69_**, sau đổi tên thành **_I-169_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**_I-35_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_I-44_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944, nó từng thực
Hai tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản từng được đặt cái tên **_I-58_**: * _I-58_ (1925) là một hạ thủy năm 1925, đổi tên thành _I-158_ năm 1942 và bị đánh chìm
**_I-364_** là một tàu ngầm vận tải thuộc lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-47_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C2 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-48_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C2 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-363_** là một tàu ngầm vận tải thuộc lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-37_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó đã thực hiện
Đây là danh sách các tàu chiến thuộc Đế quốc Nhật Bản. ## Tàu chiến trung cổ * Atakebune, Tàu chiến cận bờ thế kỉ 16. * Châu Ấn Thuyền – Khoảng 350 tàu buồm
**_ Kinu_** (tiếng Nhật: 鬼怒) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Nagara_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Tên của nó được đặt theo sông Kinu trong tỉnh Tochigi của Nhật
**Suzuya** (tiếng Nhật: 鈴谷 S_uzuya_) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ ba trong tổng số bốn chiếc thuộc lớp _Mogami_. Tên của nó được
**_Kumano_** (tiếng Nhật: 熊野) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc cuối cùng trong tổng số bốn chiếc thuộc lớp _Mogami_. _Kumano_ từng hoạt động trong
**_Portland_** là một lớp tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ được chế tạo vào đầu những năm 1930, bao gồm hai chiếc: và . ## Nguồn gốc _Portland_ là lớp tàu
**USS _Bangust_ (DE- 739)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Cannon_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất
**USS _Uhlmann_ (DD-687)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**_Ise_** (), là chiếc dẫn đầu của lớp _Ise_ gồm hai chiếc thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, từng tham gia hoạt động tại mặt trận Thái Bình Dương trong Thế
**_Kongō_** (tiếng Nhật: 金剛, Kim Cương) là chiếc tàu chiến-tuần dương đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc kiểu siêu-Dreadnought, là chiếc dẫn đầu của lớp Kongō bao gồm những chiếc _Hiei_,
**USS _Steele_ (BDE-8/DE-8)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Evarts_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải
**_Katori_** (tiếng Nhật: 香取) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó gồm ba chiếc, và đã phục vụ trong Chiến
nhỏ|phải|[[HMS Hood (51)|HMS _Hood_, tàu chiến-tuần dương lớn nhất từng được chế tạo, lớn hơn mọi thiết giáp hạm Anh Quốc cho đến khi chiếc HMS _Vanguard_ đưa ra hoạt động vào năm 1946. Nó
**USS _Haggard_ (DD-555)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
nhỏ|250x250px|Hàng không mẫu hạm lớn nhất thế giới. Nhân viên điều hành trên tháp quan sát của chiếc [[USS Ronald Reagan của Hoa Kỳ.|thế=]] **Tàu sân bay** (tiếng Anh: _aircraft carrier_), hay **hàng không mẫu
**USS _Hailey_ (DD-556)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS _Mertz_ (DD-691)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS _Morrison_ (DD-560)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS _Wasp_ (CV/CVA/CVS-18)** là một trong số 24 tàu sân bay thuộc lớp _Essex_ được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ trong Thế Chiến II, và là chiếc tàu chiến thứ chín của Hải
**USS _Wadsworth_ (DD-516)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
**USS _Aylwin_ (DD-355)** là một tàu khu trục lớp _Farragut_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn giữa hai cuộc thế chiến. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân
**USS _Waters_ (DD-115/ADP-8)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Wickes_ của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, sau được cải biến thành tàu vận chuyển cao tốc
là tên gọi cuộc triệt thoái của quân Nhật ra khỏi đảo Guadalcanal diễn ra từ ngày 14 tháng 1 đến 7 tháng 2 năm 1943. Cuộc triệt thoái này được tiến hành với sự
**USS _Tennessee_ (BB-43)** là một thiết giáp hạm của Hải quân Hoa Kỳ trong Thế chiến II, là chiếc dẫn đầu trong lớp tàu của nó, và là chiếc tàu chiến thứ ba của hải
**USS _Waller_ (DD-466/DDE-466)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS _Zane_ (DD-337/DMS-14/AG-109)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân
**USS _Helm_ (DD-388)** là một tàu khu trục lớp _Bagley_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được
**USS _Stephen Potter_ (DD-538)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân
**USS _Weaver_ (DE-741)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Cannon_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của
**USS _Leary_ (DD-158)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Wickes_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nhập biên chế vào năm 1919, nó tham
**USS _Wake Island_ (CVE-65)** là một tàu sân bay hộ tống lớp _Casablanca_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai; tên nó được đặt theo đảo Wake tại
là khu vực thứ hai trong số bốn khu vực hành chính chủ lực của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trước chiến tranh thế giới thứ hai. Tên thường gọi của nơi này là
**USS _Meade_ (DD-602)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Benson_ của Hải quân Hoa Kỳ đã phục vụ trong suốt Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của
**USS _North Carolina_ (BB-55)** là một thiết giáp hạm của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm hai chiếc, và là chiếc thiết giáp hạm mới đầu tiên
**USS _Murray_ (DD-576/DDE-576)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Mỹ
**USS _Charrette_ (DD-581)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS _Gridley_ (DD-380)** là một tàu khu trục, chiếc dẫn đầu cho lớp _Gridley_, được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải
**USS _Bagley_ (DD-386)** là một tàu khu trục, chiếc dẫn đầu của lớp _Bagley_, được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải
**USS _Collett_ (DD-730)** là một tàu khu trục lớp _Allen M. Sumner_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải
**USS _Fanning_ (DD-385)** là một tàu khu trục lớp _Mahan_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được