✨I-36 (tàu ngầm Nhật)

I-36 (tàu ngầm Nhật)

I-36 là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã từng tham gia hoạt động trong các Chiến dịch Guadalcanal, quần đảo Aleut, New Guinea và quần đảo Marshall, rồi cuối cùng như một tàu chở ngư lôi tự sát Kaiten tại khu vực biển Philippine. I-36 là chiếc duy nhất trong lớp của nó sống sót qua cuộc chiến tranh, đầu hàng lực lượng Đồng Minh vào tháng 9, 1945, và cuối cùng bị đánh chìm ngoài khơi quần đảo Goto vào tháng 4, 1946 trong khuôn khổ Chiến dịch Road's End.

Thiết kế và chế tạo

Thiết kế

Tàu ngầm Type B được cải tiến từ phân lớp KD6 của lớp tàu ngầm Kaidai dẫn trước, và được trang bị một thủy phi cơ nhằm tăng cường khả năng trinh sát. Chúng có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn, Nó được đổi tên thành I-47 vào ngày 22 tháng 10, 1941, Thử nghiệm được tiến hành trong biển nội địa Seto, kéo dài trong các ngày 29 và 30 tháng 5, và sau đó từ ngày 3 đến ngày 5 tháng 6.

1945

Nhiệm vụ Kaiten thứ hai

Tại Kure, I-36 chuẩn bị cho nhiệm vụ Kaiten tiếp theo từ ngày 22 tháng 12, 1944, rồi ghé đến căn cứ Kaiten Otsujima 27 tháng 12 để tiếp nhận bốn Kaiten cùng các hoa tiêu. Đến ngày 29 tháng 12, nó được phân về Đội Kaiten Kongo cùng với các tàu ngầm I-47, I-48, I-53, I-56I-58 cho một đợt tấn công dự định vào sáng sớm ngày 11 tháng 1, nhắm vào năm vị trí neo đậu riêng biệt tách rời nhau của Đồng Minh. Kế hoạch tấn công sau đó bị trì hoãn 24 giờ sang ngày 12 tháng 1.

I-36 cùng với I-53I-58 xuất phát từ Kure vào ngày 30 tháng 12, 1944, để hướng tới mục tiêu dự định là Ulithi. Đang khi tiếp cận Ulithi vào ngày 11 tháng 1, 1945, nó bị mắc cạn tại một rạn san hô ngầm, nhưng xoay sở thoát ra được nhờ đẩy nước ra kh6i các thùng dằn chính. Đến ngày 12 tháng 1, nó lần lượt phóng bốn chiếc Kaiten từ 03 giờ 42 phút đến 03 giờ 57 phút. Một thủy phi cơ tuần tra PBM Mariner thuộc Liên đội Tuần tra Ném bom VPB-21 Hải quân Hoa Kỳ đã thả bốn quả mìn sâu tấn công, đánh chìm một chiếc Kaiten trog vũng biển. I-36 quay trở về Kure vào ngày 21 tháng 1, được ghi công đã đánh chìm được bốn tàu Đồng Minh, nhưng thực ra họ chỉ gây hư hại cho tàu chở đạn dược và đánh chìm tàu đổ bộ bộ binh .

Nhiệm vụ Kaiten thứ ba

Vào ngày 28 tháng 2, I-36 cùng với I-58 hình thành nên Đội Kaiten Shimbu để tấn công tàu bè Đồng Minh ngoài khơi Iwo Jima, nơi trận Iwo Jima diễn ra từ ngày 19 tháng 2. I-36 rời căn cứ Kaiten tại Hikari, Yamaguchi vào ngày 2 tháng 3, mang theo bốn Kaiten cùng các hoa tiêu. Tuy nhiên đến ngày 6 tháng 3, Hạm đội Liên hợp ra lệnh cho Đệ Lục hạm đội hủy bỏ các hoạt động ngoài khơi Iwo Jima, nên chiếc tàu ngầm quay trở lại Kure vào ngày 10 tháng 3. Đến giữa tháng 3, I-36 tiếp tục được cải biến, khi máy phóng và hầm chứa máy bay được tháo dỡ, lấy chỗ để chở thêm hai Kaiten, nâng tổng số ngư lôi tự sát mang theo lên sáu chiếc. Mọi vị trí mang Kaiten đều có cửa ống, cho phép hoa tiêu đi vào Kaiten trong khi chiếc tàu ngầm đang lặn. I-36 đồng thời được trang bị radar phòng không.

Nhiệm vụ Kaiten thứ tư

Lực lượng Hoa Kỳ bắt đầu đổ bộ lên Okinawa vào ngày 1 tháng 4, khởi sự chiến dịch chiếm đóng hòn đảo này. Đến ngày 22 tháng 4, I-36 mang theo sáu Kaiten xuất phát từ căn cứ Kaiten Hikari để tuần tra trong vùng biển Philippine giữa quần đảo Mariana và Okinawa trong thành phần Đội Kaiten Tembu. Vào sáng sớm ngày 27 tháng 4, nó phát hiện một đoàn tàu vận tải Đồng Minh với khoảng 26 tàu đổ bộ đang trong hành trình từ Saipan đến Okinawa. Hai chiếc Kaiten của nó gặp trục trặc kỹ thuật, nhưng I-36 đã phóng toàn bộ bốn chiếc còn lại tấn công. Lúc 08 giờ 23 phút, tàu vận chuyển cao tốc phát hiện một quả ngư lôi, và hai phút sau đó trinh sát viên của Ringness nhìn thấy một kính tiềm vọng ở phía sau tàu. Ringness thả bốn quả mìn sâu vào vị trí phát hiện kính tiềm vọng, và đến 08 giờ 45 nghe thấy một vụ nổ lớn dưới nước tại tọa độ , và sau đó nhiều mảnh vỡ trồi lên mặt nước. Tàu hộ tống khu trục , cùng trong thành phần hộ tống của đoàn tàu vận tải, cũng phát hiện được một quả ngư lôi.

I-36 tự nhận các Kaiten của nó đã đánh chìm được bốn tàu vận tải, nhưng thực sự nó không gây tổn thất nào cho đoàn tàu vận tải. Nó quay trở về căn cứ Kaiten Hikari vào ngày 30 tháng 4 để tháo dỡ các Kaiten còn lại cùng các hoa tiêu. Chiếc tàu ngầm đang huấn luyện ngoài khơi căn cứ Kaiten Otsujima trong biển nội địa Seto vào ngày 17 tháng 5, khi một Kaiten của nó mang đầu đạn giả trong khi thực hành đã mắc tai nạn va chạm với mục tiêu và bị đắm, khiến viên hoa tiêu thiệt mạng.

Nhiệm vụ Kaiten thứ năm

I-36 lên đường vào ngày 4 tháng 6 để tuần tra tại khu vực biển Philippine trong thành phần Đội Kaiten Todoroki. Nó đang đi trên mặt nước trong biển Hoa Đông về phía Tây quần đảo Ōsumi tại tọa độ vào ngày 10 tháng 6, khi bị tàu ngầm Hoa Kỳ phát hiện. Tirante nhầm nó là một tàu ngầm tầm trung kiểu Ro, và tấn công với hai quả ngư lôi, nhưng tất cả đều bị trượt. Vào ngày 22 tháng 6, I-36 phát hiện tàu sửa chữa đang di chuyển độc lập không được hộ tống, tưởng nhầm là một tàu chở dầu, nên đã tấn công. I-36 tìm cách phóng hai Kaiten, nhưng cả hai đều gặp trục trặc, nên nó phóng bốn quả ngư lôi thông thương, nhưng tất cả đều bị kích nổ sớm. Các vụ nổ dù sao cũng gây hư hại nhẹ cho Endymion, và I-36 cho rằng mục tiêu đã trúng ngư lôi và ngập nước, nhưng Endymion đã tăng tốc độ và chạy thoát.

Vào ngày 28 tháng 6, I-36 đang ở vị trí về phía Đông Bắc Truk, tại tọa độ khi nó phát hiện tàu chở hàng hải quân đang di chuyển độc lập từ Saipan đến Trân Châu Cảng, nên đã phóng một Kaiten tấn công. Antares phát hiện kính tiềm vọng của chiếc Kaiten ở khoảng cách phía đuôi bên mạn phải lúc 13 giờ 29 phút, nên bẻ hết lái qua mạn trái để né tránh, khiến chiếc Kaiten trượt mục tiêu ở phía đuôi. Sau đó trinh sát viên trên Antares lại phát hiện chiếc Kaiten bên mạn trái, và tiếp tục cơ động qua mạn phải. Đến 13 giờ 31 phút, Antares khai hỏa nhắm vào kính tiềm vọng chiếc Kaiten, và một phát đạn pháo 3-inch đã trúng đích quả ngư lôi tự sát. Đến 13 giờ 44 phút, Antares phát hiện kính tiềm vọng của chính I-36, và khi chiếc tàu ngầm trồi lên mặt nước, Antares tấn công mục tiêu bằng khẩu pháo 5-inch phía đuôi tàu.

Antares báo động bị tàu ngầm tấn công cho tàu khu trục , vốn đang di chuyển độc lập trên đường quay trở về Hoa Kỳ để đại tu, và sau khi Sproston đến nơi, nó dò được tín hiệu sonar của I-36 ở khoảng cách . Khi tiếp cận đến khoảng cách , Sproston phát hiện một kính tiềm vọng đang di chuyển từ mạn phải qua mạn trái, nên tìm cách húc đối phương nhưng không thành công; nó thả một lượt mìn sâu để tấn công, và sau đó quan sát thấy vệt dầu loang trên mặt nước. Các vụ bởi nổ mìn sâu khiến I-36 bị rò rỉ nước trong phòng ngư lôi phía trước, nhưng nó tiếp tục phóng thêm hai Kaiten ở độ sâu . Khi Sproston phát hiện ngư lôi tiếp cận phía mũi bên mạn trái, nó bẻ hết lái sang mạn trái để né tránh, khiến chiếc Kaiten trượt mục tiêu. Chiếc tàu ngầm lại nhìn thấy kính tiềm vọng của Kaiten phía đuôi bên mạn trái, nên bắn pháo 5-inch trúng mục tiêu, gây ra một vụ nổ lớn.

Đến sáng 29 tháng 6, có thêm ba tàu hộ tống khu trục đi đến hiện trường tham gia vào cuộc truy lùng tàu ngầm đối phương, nhưng không có kết quả, và lần lượt bỏ đi. I-36 thoát được nhưng bị hư hại bánh lái, và lên đường quay trở về Nhật Bản. Đến ngày 9 tháng 7, chiếc tàu ngầm đang ở tại eo biển Bungo cách về phía Nam đảo Okinoshima thuộc Sukumo, Kōchi, khi nó bị tàu ngầm Hoa Kỳ phát hiện tại tọa độ , nhận định nhầm nó là một chiếc , tuy nhiên cả bốn quả ngư lôi Gunnel phóng ra tấn công đều bị trượt phía đuôi chiếc tàu ngầm Nhật. I-36 quay trở về căn cứ Kaiten Hikari an toàn cùng ngày hôm đó, nơi nó tháo dỡ các Kaiten còn lại cùng các hoa tiêu, rồi tiếp tục đi đến Kure để sửa chữa.

Giai đoạn cuối chiến tranh

Rời ụ tàu vào ngày 6 tháng 8, I-36 chuyển đến neo đậu tại căn cứ hải quân Kure, nơi vào sáng ngày hôm đó thủy thủ đoàn chứng kiến vụ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima. Con tàu đang ở tại eo biển Hayase Seto trong vịnh Hiroshima vào ngày 11 tháng 8, chuẩn bị khởi hành đi sang căn cứ Hirao để tham gia nhiệm vụ kaiten Shinshu-tai, khi nó bị hai máy bay tiêm kích P-51 Mustang Không lực Lục quân Hoa Kỳ đặt căn cứ tại Iwo Jima bắn phá lúc 10 giờ 40 phút. Cuộc tấn công đã làm bị thương hạm trưởng cùng sĩ quan hoa tiêu của I-36 và làm hư hại thùng nhiên liệu diesel cũng như dàn radar. Việc sửa chữa nó dự kiến sẽ mất tám ngày.

Vào ngày 15 tháng 8, I-36I-47 vẫn còn đang neo đậu tại Kure khi Thiên hoàng Hirohito tuyên bố đầu hàng để chấm dứt mọi xung đột giữa Nhật Bản và khối Đồng Minh. I-36 là chiếc tàu ngầm Type B1 duy nhất sống sót qua Thế Chiến II.

Bị loại bỏ

I-36 đầu hàng lực lượng Đồng Minh trong tháng 9. Nó được thị sát tại Kure vào ngày 5 tháng 10 trong tình trạng thủy thủ đoàn chỉ còn lại 55 người, chứa 100 tấn nhên liệu và 20 tấn nước sạch; mọi vũ khí và thiết bị hữu ích đã bị tháo dỡ. Con tàu sau đó được chuyển từ Kure đến Sasebo, nơi mọi thiết bị còn lại và vật tư hữu dụng bị tháo dỡ nốt. Tên nó được rút khỏi đăng bạ hải quân vào ngày 30 tháng 11, 1945.

Chiếc tàu ngầm sau đó được tàu tiếp liệu tàu ngầm Hoa Kỳ kéo đến khu vực ngoài khơi quần đảo Gotō. Tại đây vào ngày 1 tháng 4, 1946, nó nằm trong số 24 tàu ngầm Nhật Bản bị đánh chìm trong khuôn khổ Chiến dịch Road's End. Nó được ghép cặp bên mạn tàu ngầm Ha-106, rồi cả hai cùng bị đánh đắm bằng thuộc nổ lúc 15 giờ 58 phút tại tọa độ .

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_I-36_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_I-69_**, sau đổi tên thành **_I-169_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**_I-7_** là một tàu ngầm tuần dương phân lớp bao gồm hai chiếc có khả năng mang máy bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó cùng với tàu chị em _I-8_ là những
**_I-58_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Đang khi chế tạo, nó được cải biến
**_I-183_** (nguyên mang tên **_I-83_**) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1943. Nó đã hoạt động trong Chiến
**_I-47_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C2 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-53_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C3 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu ngầm
**_I-48_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C2 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-59_**, sau đổi tên thành **_I-159_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIB nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1929. Trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_I-363_** là một tàu ngầm vận tải thuộc lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-361_** là một tàu ngầm vận tải, chiếc dẫn đầu của lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên
**_I-65_**, sau đổi tên thành **_I-165_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai V nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1932. Nó đã phục vụ trong
**_I-75_**, sau đổi tên thành **_I-175_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**_I-56_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944, nó hoạt động
**_I-56_**, sau đổi tên thành **_I-156_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIB nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1929. Trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_I-71_**, sau đổi tên thành **_I-171_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**_I-32_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_I-37_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó đã thực hiện
**_U-36_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1936, nó đã thực
Ít nhất ba tàu ngầm của Hải quân Đức từng được đặt cái tên **_U-36_**: * là một tàu ngầm hạ thủy năm 1914, phục vụ trong Thế Chiến I và bị đánh chìm năm
**Tàu ngầm lớp I-15** (cũng được biết đến như tàu ngầm Kiểu B1) là loại tàu ngầm có số lượng lớn nhất mà Hải quân Hoàng gia Nhật Bản từng sử dụng trong chiến tranh
là một lớp tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tàu ngầm _Type A_ được chế tạo để đóng vai trò soái hạm của hải đội
U-boat **Type VII** là kiểu tàu ngầm thông dụng nhất của Hải quân Đức Quốc Xã trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, với 703 chiếc được chế tạo vào lúc cuộc xung đột kết
**_U-102_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó chỉ thực
Đây là danh sách các tàu chiến thuộc Đế quốc Nhật Bản. ## Tàu chiến trung cổ * Atakebune, Tàu chiến cận bờ thế kỉ 16. * Châu Ấn Thuyền – Khoảng 350 tàu buồm
**USS _Manlove_ (DE-36)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Evarts_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải
nhỏ|300x300px| nhỏ|upright|Tàu khu trục , một chiếc thuộc của [[Hải quân Hoa Kỳ.]] **Tàu khu trục**, hay còn gọi là **khu trục hạm**, (tiếng Anh: _destroyer_) là một tàu chiến chạy nhanh và cơ động,
**_Kongō_** (tiếng Nhật: 金剛, Kim Cương) là chiếc tàu chiến-tuần dương đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc kiểu siêu-Dreadnought, là chiếc dẫn đầu của lớp Kongō bao gồm những chiếc _Hiei_,
**Lớp tàu khu trục _Gearing**_ bao gồm 98 tàu khu trục được Hải quân Hoa Kỳ trong và ngay sau Chiến tranh Thế giới thứ hai. Lớp _Gearing_ có những cải tiến nhỏ so với
**_Myōkō_** (tiếng Nhật: 妙高) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm bốn chiếc; những chiếc còn lại trong
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Lion**_ bao gồm hai tàu chiến-tuần dương được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Mang biệt danh "Splendid Cats", Nó đã đánh
**Lớp tàu sân bay _Courageous**_, đôi khi còn được gọi là **lớp _Glorious_**, là lớp nhiều chiếc tàu sân bay đầu tiên phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Ba chiếc trong lớp
**_Ise_** (), là chiếc dẫn đầu của lớp _Ise_ gồm hai chiếc thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, từng tham gia hoạt động tại mặt trận Thái Bình Dương trong Thế
**Lớp tàu sân bay _Graf Zeppelin**_ là hai tàu sân bay của Hải quân Đức được đặt lườn vào giữa những năm 1930 như một phần của Kế hoạch Z nhằm tái vũ trang. Bốn
**_Graf Zeppelin_** là tàu sân bay duy nhất của Đức được hạ thủy trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, tiêu biểu phần nào cho những nỗ lực của Hải quân Đức để tạo ra
**(G)I-dle** (, viết cách điệu là **(G)I-DLE**), cũng được biết đến với tên **I-dle** (아이들 ; _Aideul_) là một nhóm nhạc nữ đa quốc tịch hoạt động tại Hàn Quốc, được thành lập và quản
là tên gọi cuộc triệt thoái của quân Nhật ra khỏi đảo Guadalcanal diễn ra từ ngày 14 tháng 1 đến 7 tháng 2 năm 1943. Cuộc triệt thoái này được tiến hành với sự
**USS _Waller_ (DD-466/DDE-466)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS _Woodworth_ (DD-460)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Benson_ của Hải quân Hoa Kỳ đã phục vụ trong suốt Chiến tranh Thế giới thứ hai. Say chiến tranh, nó được chuyển giao cho
**USS _Wasp_ (CV/CVA/CVS-18)** là một trong số 24 tàu sân bay thuộc lớp _Essex_ được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ trong Thế Chiến II, và là chiếc tàu chiến thứ chín của Hải
**USS _Worden_ (DD-352)** là một tàu khu trục lớp _Farragut_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn giữa hai cuộc thế chiến. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân
**USS _Tabberer_ (DE-418)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _John C. Butler_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy
**USS _Burden R. Hastings_ (DE-19)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Evarts_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất
**Chiến dịch Guadalcanal**, còn gọi là **Trận Guadalcanal**, tên mã của Đồng Minh là **Chiến dịch Watchtower**, diễn ra từ ngày 7 tháng 8 năm 1942 đến ngày 9 tháng 2 năm 1943 trên đảo
**Charles I của Anh** (19 tháng 11 năm 1600 – 30 tháng 1 năm 1649) là vua của ba vương quốc Anh, Scotland, và Ireland từ 27 tháng 3 năm 1625 đến khi bị hành quyết
**USS _Meade_ (DD-602)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Benson_ của Hải quân Hoa Kỳ đã phục vụ trong suốt Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của
**USS _Fanning_ (DD-385)** là một tàu khu trục lớp _Mahan_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Indefatigable**_ là lớp tàu chiến-tuần dương thứ hai của Anh Quốc, đã phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Anh và Hải quân Hoàng gia Australia trong Chiến tranh Thế giới
**USS _Renshaw_ (DD-499/DDE-499)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Mỹ
**USS _Robert F. Keller_ (DE-419)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _John C. Butler_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu