U-boat Type VII là kiểu tàu ngầm thông dụng nhất của Hải quân Đức Quốc Xã trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, với 703 chiếc được chế tạo vào lúc cuộc xung đột kết thúc. Chiếc duy nhất còn sống sót, U-995, hiện đang được trưng bày tại Đài tưởng niệm Hải quân Laboe ở Laboe, Schleswig-Holstein, Đức.
Thiết kế và chế tạo
Thiết kế của Type VII dựa trên những thiết kế tàu ngầm Đức trước đây vào thời Chiến tranh Thế giới thứ nhất, Type UB III và đặc biệt là Type UG bị hủy bỏ). Type UG được thiết kế bởi công ty bình phong Hà Lan NV Ingenieurskantoor voor Scheepsbouw Den Haag (I.v.S) nhằm né tránh các gới hạn mà Hiệp ước Versailles đặt ra, và được đóng tại các xưởng tàu ở nước ngoài. Các lớp tàu ngầm Phần Lan Vetehinen cùng Type E-1 của Tây Ban Nha cũng cung cấp những ý tưởng căn bản cho thiết kế Type VII. Những thiết kế này đã dẫn đến Type VII cùng với Type I, vốn được đóng tại xưởng tàu của hãng AG Weser ở Bremen, Đức. Việc chế tạo Type I bị ngừng sau khi chỉ đóng hai chiếc mà không rõ nguyên nhân. Thiết kế của Type I sau này được sử dụng trong việc phát triển Type VII và Type IX.
Tàu ngầm Type VII là kiểu U-boat được sử dụng rộng rãi nhất trong cuộc chiến tranh, cũng là kiểu tàu ngầm được sản xuất nhiều nhất trên thế giới, với 703 chiếc được chế tạo. Chúng có nhiều biến thể khác nhau. Type VII cũng là kiểu U-boat tham gia nhiều nhất trong Trận Đại Tây Dương.
Các biến thể
Type VIIA
U-boat Type VIIA được thiết kế trong giai đoạn 1933-1934 như loạt đầu tiên của một thế hệ tàu ngầm tấn công mới. Phần lớn U-boat Type VIIA được chế tạo tại xưởng tàu Deschimag AG Weser ở Bremen, ngoại trừ những chiếc từ U-33 đến U-36 được chế tạo tại xưởng tàu Friedrich Krupp Germaniawerft ở Kiel. Cho dù không gian sinh hoạt bên trong tàu rất chật chội, U-boat Type VIIA được thủy thủ đoàn ưa chuộng nhờ tốc độ lặn khẩn cấp nhanh, giup chúng chống trả đối phương tấn công tốt hơn so với những kiểu tàu lớn, cồng kềnh. Ngoài ra tàu nhỏ với tầm hoạt động ngắn hơn sẽ rút ngắn các chuyến tuần tra. Chúng trang bị vũ khí mạnh hơn kiểu Type II nhỏ hơn mà chúng thay thế, với bốn ống phóng ngư lôi trước mũi và một ống phía đuôi bên ngoài tàu. Chúng thường mang theo 11 quả ngư lôi, rất cơ động trên mặt nước và trang bị pháo bắn nhanh trên boong tàu với khoảng 220 quả đạn. Động cơ mạnh hơn cũng giúp chúng hơi nhanh hơn so với Type VIIA, và hai bánh lái giúp con tàu thêm nhanh nhẹn. Vũ khí ngư lôi được cải tiến khi ống phóng ngư lôi phía đuôi được đưa vào bên trong tàu. Giờ đây chúng có thêm một ngư lôi bổ sung cho ống phóng phía đuôi, và hai ngăn kín nước dưới sàn trước chứa thêm hai quả ngư lôi nữa, khiến con tàu mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi. Ngoại lệ duy nhất là chiếc U-83, không có ống phóng ngư lôi phía đuôi và chỉ mang theo 12 quả.]]
Type VIIC là "con ngựa thồ" của lực lượng U-boat Đức, với 568 chiếc được nhập biên chế từ năm 1940 đến năm 1945, chiếc VIIC đầu tiên đi vào hoạt động là U-93. Chúng là một công cụ chiến tranh hiệu quả và đã hoạt động tại khắp các mặt trận, cho dù tầm hoạt động chỉ có 8.500 hải lý kém hơn đáng kể so với Type IX (11.000 hải lý), làm giới hạn thời gian có thể hoạt động tại các khu vực xa như Tây và Nam Đại Tây Dương mà không tiếp thêm nhiên liệu từ một tàu tiếp liệu hay U-boat chở dầu. Theo các nguồn tài liệu của Đức, các U-flak đã bắn rơi sáu máy bay đối phương: ba chiếc bởi U-441, còn U-256, U-621 và U-953 mỗi chiếc đã bắn rơi một máy bay.
Type VIIC/41
right|thumb|Type VIIC/41 U-995 tại [[Đài tưởng niệm Hải quân Laboe]]
Type VIIC/41 là phiên bản được cải tiến nhẹ của Type VIIC, giữ nguyên cấu hình động cơ và vũ khí. Điểm khác biệt là có lườn áp lực chắc chắn hơn nên có độ sâu ép vỡ tốt hơn, và hệ thống động lực nhẹ hơn để bù trừ cho lượng thép gia cố lườn tàu. Với trọng lượng chung nhẹ hơn, có tổng cộng 91 chiếc Type VIIC/41 được chế tạo; những chiếc từ U-1271 trở đi không thể mang theo thủy lôi.
Hiện nay chỉ có một chiếc Type VIIC/41 duy nhất còn lại: U-995 đang được trưng bày tại Đài tưởng niệm Hải quân Laboe gần Kiel.
Type VIIC/42
Type VIIC/42 được thiết kế trong những năm 1942-1943 để thay thế cho Type VIIC đã cũ. Chúng sẽ có lườn tàu được gia cố và lớp vỏ dày đến 28 mm, giúp lặn sâu hơn gấp đôi so với Type VIIC. Kiểu dáng bên ngoài hầu như tương tự như Type VIIC/41, nhưng sẽ có hai kính tiềm vọng và mang thêm hai quả ngư lôi. Chúng sẽ có động cơ tương tự như Type VIIC.
Hợp đồng đã được ký kết cho 164 chiếc và một số đã được đặt lườn, tuy nhiên tất cả bị hủy bỏ vào ngày 30 tháng 9, 1943 khi chưa có chiếc nào được hạ thủy, công việc chế tạo chuyển sang Type XXI tiên tiến hơn.
Type VIID
Type VIID được thiết kế trong những năm 1939-1940 là một phiên bản VIIC được kéo dài thêm để sử dụng như tàu ngầm rải mìn. Các quả thủy lôi được chuyên chở và thả ra từ ba dãy năm ống phóng thẳng đứng ngay phía sau tháp chỉ huy. Thân tàu được kéo dài cũng tăng thêm lượng nhiên liệu và thực phẩm mang theo.
Để di chuyển trên mặt nước, Type VIID trang bị hai động cơ diesel Germaniawerft F46 6-xy lanh 4-thì, cung cấp công suất tổng cộng ở 470 đến 490 vòng quay mỗi phút. Khi lặn, chúng sử dụng hai động cơ điện AEG GU 460/8-276 có tổng công suất với vòng quay tối đa 285 vòng/phút. Chúng sử dụng cấu hình động cơ tương tự như Type VIID.
Chỉ có bốn chiếc Type VIIF được chế tạo. Hai chiếc U-1059 và U-1062 được gửi hỗ trợ cho hoạt động của Đội Monsun tại Viễn Đông; hai chiếc còn lại U-1060 và U-1061 được giữ lại khu vực Đại Tây Dương. Ba chiếc bị đánh chìm trong chiến tranh, chiếc duy nhất còn sống sót đã đầu hàng lực lượng Đồng Minh, và giống như số phận của hầu hết U-boat đã đầu hàng, U-1061 bị đánh đắm trong Chiến dịch Deadlight sau chiến tranh.
Đặc tính kỹ thuật
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
U-boat **Type VII** là kiểu tàu ngầm thông dụng nhất của Hải quân Đức Quốc Xã trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, với 703 chiếc được chế tạo vào lúc cuộc xung đột kết
Lớp tàu ngầm **U-boat Type II**, bao gồm tổng cộng bốn lớp con, được Đức Quốc Xã thiết kế như những tàu ngầm duyên hải dựa theo kiểu tàu ngầm CV-707, vốn được thiết kế
**Tàu ngầm Klasse XXIII** "Elektroboot" là loại tàu ngầm ven bờ (coastal submarine) được thiết kế để hoạt động tại các vùng biển như: Biển Bắc, Biển Đen và Biển Địa Trung Hải, nơi mà
thumb|Tháp chỉ huy [[tàu ngầm USS _U-3008_ (nguyên là tàu ngầm Đức _U-3008_), với ống hơi nhô lên]] **Ống hơi tàu ngầm** (tiếng Anh: snorkel, tiếng Đức: schnorchel) là một thiết bị cho phép tàu
**_U-570_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó chỉ thực
**_U-480_** là một tàu ngầm tấn công thử nghiệm thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó được xem là tàu ngầm
**_U-486_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Con tàu được trang bị một lớp vỏ
**_U-482_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó đã thực
**_U-230_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực
**_U-573_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó chỉ thực
**_U-559_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-558_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-552_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã thực
**_U-264_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực
**_U-275_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực
**_U-333_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-353_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó chỉ kịp
**_U-96_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã thực
**_U-375_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó dành toàn
**_U-382_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực
**_U-203_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-202_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-201_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-435_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-432_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-456_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-455_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-303_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực
**_U-575_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-572_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-571_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-569_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-568_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-566_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-564_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-565_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó dành phần
**_U-563_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-562_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-557_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-556_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-553_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã thực
**_U-587_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó chỉ thực
**_U-254_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-262_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực
**_U-256_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-263_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực
**_U-278_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó đã thực
**_U-606_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực
**_U-309_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó đã thực
**_U-306_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực