✨I-56 (tàu ngầm Nhật) (1943)

I-56 (tàu ngầm Nhật) (1943)

I-56 là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944, nó hoạt động tuần tra và tham gia Chiến dịch Philippines trong trận Hải chiến vịnh Leyte trước khi được cải biến thành thành tàu ngầm mang ngư lôi tự sát Kaiten. Nó tiếp tục hoạt động tuần tra và tham gia trận Okinawa trước khi mất tích vào tháng 4, 1945, có thể bị các tàu khu trục và máy bay Hải quân Hoa Kỳ đánh chìm tại khu vực Okinawa vào ngày 18 tháng 4, 1945.

Thiết kế và chế tạo

Thiết kế

Tàu ngầm Type B Cải tiến 2 (lớp I-54) (còn gọi là Type B3) được cải tiến từ Type B2 dẫn trước, có công suất động cơ diesel giảm đáng kể để nâng cao tầm xa hoạt động. Nó được đổi tên thành I-56 vào ngày 12 tháng 6, 1943, rồi được hạ thủy vào ngày 30 tháng 6, 1943. Con tàu hoàn tất và nhập biên chế vào ngày 8 tháng 6, 1944, dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá Hải quân Morinaga Masahiko.

Lịch sử hoạt động

1944

Sau khi nhập biên chế, I-56 được phối thuộc cùng Quân khu Hải quân Kure và được điều về Hải đội Tàu ngầm 11 trực thuộc Đệ Lục hạm đội để chạy thử máy và huấn luyện. Sau khi hoàn tất, vào ngày 20 tháng 9, 1944, nó được điều động sang Đội tàu ngầm 15 trực thuộc Hải đội Tàu ngầm 1, vẫn thuộc Đệ Lục hạm đội. Đến đầu tháng 10, I-56 được cải biến thành một tàu ngầm mang ngư lôi tự sát Kaiten, khi khẩu hải pháo 14 cm trên boong phía sau tàu được tháo dỡ, và lắp đặt các bộ gá để có thể mang theo bốn chiếc Kaiten. Cùng vào thời gian này, nó được trang bị radar và thiết bị dò radar.

Từ ngày 12 tháng 10, các tàu sân bay thuộc Lực lượng Đặc nhiệm 38 Đệ Tam hạm đội Hoa Kỳ bắt đầu tiến hành không kích xuống các sân bay tại Đài Loan, và sau đó xuống phía Bắc đảo Luzon thuộc quần đảo Philippine. Vì vậy Đô đốc Soemu Toyoda, Tổng tư lệnh Hạm đội Liên hợp, ra lệnh tiến hành Chiến dịch Shō-Gō 1 từ ngày 13 tháng 10 để phòng thủ Philippines. Công việc cải biến I-56 phải tạm dừng và nó chuẩn bị để hoạt động như một tàu ngầm thông thường.

Chuyến tuần tra thứ nhất

Vào ngày 15 tháng 10, I-56 cùng với các tàu ngầm I-26, I-45, I-53I-54 được điều động vào Nhóm tàu ngầm A trực thuộc Đệ Lục hạm đội. Nó rời Kure, Hiroshima cùng ngày hôm đó với nhiệm vụ tấn công Lực lượng Đặc nhiệm 38, đi đến khu vực tuần tra được chỉ định trong biển Philippine cách Đài Loan về phía Đông Nam. Đến ngày 18 tháng 10, nó được lệnh tuần tra khu vực phía Đông đảo Leyte, Philippines từ ngày 24 tháng 10. Trận Leyte bắt đầu vào ngày 20 tháng 10 khi lực lượng Đồng Minh đổ bộ lên Leyte, và cuộc phản công của Hải quân Nhật Bản đã đưa đến trận Hải chiến vịnh Leyte từ ngày 23 đến ngày 26 tháng 10.

I-56 đang ở trong biển Philippine về phía Đông Mindanao vào ngày 24 tháng 10, khi nó phóng ba quả ngư lôi với kíp nổ cảm ứng từ tấn công đoàn tàu vận tải thuộc Đội đặc nhiệm 78.1 đang trên đường quay trở lại New Guinea. Chiếc tàu ngầm nghe thấy ba tiếng nổ, nên tin rằng đã đánh chìm được ba tàu vận tải, nhưng thực ra chỉ có một quả ngư lôi đánh trúng và gây hư hại cho chiếc landing ship, tank ; chiếc LST sống sót và được đồng đội kéo đến Guam an toàn. tàu frigate tuần tra tìm cách phản công chiếc tàu ngầm, nhưng không thành công.

Đến ngày 25 tháng 10, I-56 đang ở trong biển Philippine về phía Đông Bắc Mindanao khi nó trông thấy Đơn vị Đặc nhiệm 77.4.1 Đệ Thất hạm đội Hoa Kỳ. Đến 22 giờ 34 phút, nó phóng năm quả ngư lôi tấn công, nghe thấy ba tiếng nổ khoảng 50 giây sau đó, nên tự nhận đã đánh chìm một tàu sân bay hộ tống. Trước đó lúc 22 giờ 32 phút, một tàu hộ tống thuộc Đơn vị 77.4.1 đã phát hiện chiếc tàu ngầm, nên các tàu sân bay hộ tống đã kịp thời đổi hướng khẩn cấp 90 độ để né tránh chiếc tàu ngầm; tàu sân bay phát hiện hai quả ngư lôi đi bên cạnh tàu. Tàu hộ tống khu trục tìm cách phản công bằng mìn sâu, buộc I-56 phải lặn xuống đến độ sâu . Coolbaugh tự nhận đã đánh chìm tàu ngầm đối phương, nhưng I-56 vẫn sống sót, và sau khi trồi lên mặt nước, nó thu được một quả mìn sâu Mark 9 không kích nổ dính vào sàn tàu phía sau tháp chỉ huy.

Chỉ còn lại ba quả ngư lôi, trong đó một quả gặp trục trặc, I-56 được lệnh quay trở về Nhật Bản. Nó về đến Kure vào ngày 4 tháng 11, và tại đây công việc cải biến thành tàu ngầm mang ngư lôi tự sát Kaiten được tái tục. Nó bắt đầu thực hành phóng ngư lôi Kaiten từ ngày 12 tháng 11.

1945

Nhiệm vụ Kaiten thứ nhất

Vào tháng 12, 1944, I-56 được điều về Đội Kaiten Kongo cùng các tàu ngầm I-36, I-47, I-48, I-53I-58; Đội có nhiệm vụ tấn công bằng Kaiten năm địa điểm thả neo khác nhau của hạm đội Hoa Kỳ, đồng loạt vào lúc bình minh ngày 11 tháng 1, 1945, nhưng sau đó bị trì hoãn sang sáng sớm ngày 12 tháng 1, 1945. I-56 xuất phát từ căn cứ Kaiten Otsujima tại Yamaguchi lúc 13 giờ 00 ngày 22 tháng 12, hướng đến mục tiêu được chỉ định là Seeadler Harbor trên đảo Manus, nơi neo đậu của lực lượng Đồng Minh thuộc quần đảo Admiralty trong nhóm quần đảo Bismarck. Trên đường đi, nó được thông tin trinh sát từ thủy phi cơ vào ngày 6 tháng 1, 1945, cho biết sáu tàu tuần dương cùng 28 tàu vận tải đang thả neo tại Manus.

Trước đó vào ngày 10 tháng 11, 1944, tàu chở đạn của Hải quân Hoa Kỳ bị nổ tung tại Seeadler Harbor mà không rõ nguyên nhân, và bộ máy tuyên truyền của Tokyo tuyên bố rằng một tàu ngầm bỏ túi đã lập được chiến công này. Vì vậy Hải quân Hoa Kỳ đã tăng cường hoạt động tuần tra chung quanh căn cứ Manus, nên vào ngày 10 tháng 1, 1945, I-56 gặp khó khăn khi bị lực lượng tuần tra chống tàu ngầm phát hiện ở vị trí về phía Tây Manus, lúc nó trồi lên mặt nước để xác định chính xác tọa độ. Chiếc tàu ngầm bị truy đuổi trong một giờ trước khi thoát được.

Sang ngày hôm sau 11 tháng 1, I-56 trồi lên mặt nước ở vị trí về phía Bắc Seeadler Harbor lúc 23 giờ 00 để nạp điện ắc-quy, nhằm chuẩn bị cho đợt tấn công Kaiten vào ngày 12 tháng 1 theo như kế hoạch. Khi I-56 còn cách cảng , máy dò radar của nó phát hiện một máy bay tuần tra Đồng Minh đang tiếp cận. Chiếc tàu ngầm buộc phải lặn xuống, và không lâu sau đó nó nghe thấy qua sonar nhiều tàu tuần tra đang truy lùng trong khu vực. Hạm trưởng của I-56 quyết định trì hoãn đợt tấn công và rút lui lên phía Bắc.

Lúc sau hoàng hôn ngày 12 tháng 1, I-56 lại trồi lên mặt nước ở vị trí về phía Bắc Seeadler Harbor và di chuyển trên mặt nước. Khi còn cách mục tiêu , máy dò radar của nó phát hiện máy bay đối phương, rồi năm phút sau đó nó bắt được tín hiệu đối phương qua radar của mình, đồng thời nghe thấy có thêm nhiều máy bay khác đang xuất phát. I-56 lặn xuống một phần để tránh bị nhìn thấy trong khi tiếp tục hướng đến mục tiêu, nhưng cuối cùng vẫn bị một máy bay tấn công, nên buộc phải lặn xuống lúc 02 giờ 30 phút ngày 13 tháng 1. Khi nghe thấy tiếng chân vịt của nhiều tàu tuần tra đang truy lùng trong khu vực, chiếc tàu ngầm một lần nữa trì hoãn đợt tấn công và rút lui.

Đến chiều tối ngày 13 tháng 1, Bộ tư lệnh Đệ Lục hạm đội chỉ thị cho I-56 nỗ lực lần cuối cùng để có thể phóng các Kaiten rồi quay trở về Nhật Bản. Nó bắt đầu tiếp cận Manus, đến được vị trí về phía Tây Manus lúc 03 giờ 10 phút ngày 14 tháng 1, khi bị một máy bay tuần tra chống tàu ngầm tấn công. I-56 phải hủy bỏ kế hoạch tấn công bằng Kaiten, và đến ngày 18 tháng 1 nó được lệnh quay trở về Nhật Bản với bốn Kaiten trên tàu nhằm thử nghiệm đánh giá khả năng chịu đựng những chuyến đi biển kéo dài của các ngư lôi tự sát này. Nó về đến căn cứ Kaiten Otsujima vào ngày 3 tháng 2, chất dỡ các Kaiten cùng hoa tiêu, và tiếp tục đi đến Kure.

Sau khi quay trở lại Kure, I-56 trải qua một đợt tái trang bị, khi hầm chứa máy bay cùng máy phóng dành cho thủy phi cơ được tháo dỡ khỏi sàn phía trước, lấy chỗ để mang thêm hai ngư lôi Kaiten, khiến nó có thể mang tổng cộng sáu chiếc Kaiten.

Nhiệm vụ Kaiten thứ hai

Từ ngày 26 đến ngày 29 tháng 3, 1945, lực lượng Hoa Kỳ đổ bộ lên quần đảo Kerama về phía Tây Nam Okinawa nhằm chiếm một căn cứ tiền phương chuẩn bị cho việc chiếm đóng chính Okinawa. Vào ngày 27 tháng 3, Đội Kaiten Tatara, vốn bao gồm I-56 và các tàu ngầm I-44, I-47I-58, được thành lập để tấn công tàu bè Đồng Minh tại Okinawa. I-56 xuất phát từ căn cứ Otsujima vào ngày 31 tháng 3, mang theo sáu ngư lôi Kaiten để hướng đến khu vực hoạt động về phía Đông Bắc Okinawa. Trận Okinawa chính thức bắt đầu vào ngày 1 tháng 4 khi lực lượng Hoa Kỳ bắt đầu đổ bộ lên chính Okinawa.

Bị mất

I-56 bị mất vào một lúc nào đó trong tháng 4 nhưng không rõ hoàn cảnh cụ thể. Đa số các sử gia Nhật Bản cho rằng tàu khu trục Hoa Kỳ đã đánh chìm nó vào ngày 5 tháng 4, nhưng hầu hết các tác giả phương Tây xác định Hudson đã đánh chìm chiếc Ro-49. Một số sử gia phương Tây cũng ghi công cho I-56 đã đánh chìm tàu ngầm Hoa Kỳ vào một lúc nào đó sau ngày 8 tháng 4, nhưng tài liệu thu được từ phía Nhật Bản không thể xác nhận điều này.

Vào ngày 17 tháng 4, lúc 23 giờ 05 phút, thiết giáp hạm phát hiện qua radar một tàu ngầm đang di chuyển trên mặt nước ở khoảng cách , nên một đội tìm-diệt tàu ngầm được hình thành chung quanh tàu sân bay hạng nhẹ . Tàu khu trục phát hiện được mục tiêu qua radar, và tàu khu trục đã tiến hành một lượt tấn công bằng mìn sâu, nhưng không có kết quả. Đến sáng ngày 18 tháng 4, hai máy bay xuất phát từ Bataan cùng với các tàu khu trục , và tiến hành một đợt tấn công phối hợp. Sau nhiều giờ truy tìm và tấn công, chiếc tàu ngầm đối phương cuối cùng bị đánh chìm tại tọa độ . Tung tích chiếc tàu ngầm bị đánh chìm tiếp tục là một bí ẩn, nhưng nhiều khả năng đó là I-56.

Đến ngày 2 tháng 5, Hải quân Đế quốc Nhật Bản công bố I-56 có thể đã bị mất tại khu vực Okinawa với tổn thất toàn bộ 116 thành viên thủy thủ đoàn cùng sáu thành viên tổ lái Kaiten. Tên nó được cho rút khỏi đăng bạ hải quân vào ngày 10 tháng 6, 1945.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_I-56_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944, nó hoạt động
**_I-58_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Đang khi chế tạo, nó được cải biến
**_I-54_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944, nó hoạt động
**_I-44_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944, nó từng thực
**_I-351_** là một tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc duy nhất của lớp tàu ngầm chở dầu _I-351_ () được Nhật Bản hoàn tất trong giai đoạn cuối Chiến tranh
Hai tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản từng được đặt cái tên **_I-56_**: * _I-56_ (1926) là một IIIA hạ thủy năm 1926, đổi tên thành _I-156_ năm 1942 và bị đánh
**_I-8_** là một tàu ngầm tuần dương phân lớp bao gồm hai chiếc có khả năng mang máy bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó cùng với tàu chị em _I-7_ là những
**_I-56_**, sau đổi tên thành **_I-156_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIB nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1929. Trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_I-47_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C2 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-48_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C2 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-45_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó hoạt động
, nguyên là **_Tàu ngầm số 78_**, sau đổi tên thành , là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIA nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1927.
**Tàu ngầm lớp I-15** (cũng được biết đến như tàu ngầm Kiểu B1) là loại tàu ngầm có số lượng lớn nhất mà Hải quân Hoàng gia Nhật Bản từng sử dụng trong chiến tranh
**Tàu ngầm lớp** **_Ko-hyoteki_** (甲標的, Kō-hyōteki), hay tàu ngầm **Kōryū** (蛟竜) là tàu ngầm loại nhỏ được Nhật Bản sử dụng trong chiến tranh thế giới thứ hai. Chúng có số trên thân tàu nhưng
**_U-304_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó chỉ kịp
**USS _Liscome Bay_ (CVE-56)** là một tàu sân bay hộ tống lớp _Casablanca_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai; tên nó được đặt theo vịnh Liscome thuộc
Đây là danh sách các tàu chiến thuộc Đế quốc Nhật Bản. ## Tàu chiến trung cổ * Atakebune, Tàu chiến cận bờ thế kỉ 16. * Châu Ấn Thuyền – Khoảng 350 tàu buồm
**_ Kinu_** (tiếng Nhật: 鬼怒) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Nagara_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Tên của nó được đặt theo sông Kinu trong tỉnh Tochigi của Nhật
**USS _Uhlmann_ (DD-687)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**_Ise_** (), là chiếc dẫn đầu của lớp _Ise_ gồm hai chiếc thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, từng tham gia hoạt động tại mặt trận Thái Bình Dương trong Thế
**USS _Newcomb_ (DD-586)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Courageous**_ bao gồm ba chiếc tàu chiến-tuần dương được biết đến như là những "tàu tuần dương hạng nhẹ lớn" được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Trên
**USS _Mertz_ (DD-691)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS _England_ (DE-635)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Buckley_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên nó được đặt theo Thiếu úy Hải quân
**USS _Tennessee_ (BB-43)** là một thiết giáp hạm của Hải quân Hoa Kỳ trong Thế chiến II, là chiếc dẫn đầu trong lớp tàu của nó, và là chiếc tàu chiến thứ ba của hải
**USS _Wake Island_ (CVE-65)** là một tàu sân bay hộ tống lớp _Casablanca_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai; tên nó được đặt theo đảo Wake tại
**USS _North Carolina_ (BB-55)** là một thiết giáp hạm của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm hai chiếc, và là chiếc thiết giáp hạm mới đầu tiên
**USS _Nicholas_ (DD-449/DDE-449)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
**USS _Heermann_ (DD-532)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS _Sangamon_ (CVE-26)** là một tàu sân bay hộ tống được cải biến từ tàu chở dầu để phục vụ cho Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc
**HMS _Ramillies_ (07)** là một thiết giáp hạm thuộc lớp _Revenge_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Tên của nó được đặt theo trận Ramillies. _Ramillies_ từng hoạt động trong cả Chiến tranh Thế
**Lockheed Ventura** là một loại máy bay tuần tra trong Chiến tranh thế giới II, nó được Hoa Kỳ và khối thịnh vượng chung Anh sử dụng. Nó được phát triển từ máy bay vận
**USS _Collett_ (DD-730)** là một tàu khu trục lớp _Allen M. Sumner_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải
**Chiến dịch Kavkaz** là tên gọi chung cho một chuỗi các hoạt động quân sự tại khu vực Kavkaz diễn ra giữa quân đội Liên Xô và quân đội Đức Quốc xã trong cuộc Chiến
**Lớp thiết giáp hạm _North Carolina**_ là một lớp bao gồm hai thiết giáp hạm, _North Carolina_ và _Washington_, được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ vào cuối thập niên 1930 và đầu thập
**Chiến dịch tấn công hữu ngạn Dniepr** ở Ukraina (1944), hay còn được gọi là **Chiến dịch tấn công Dniepr–Carpath**, kéo dài từ ngày 24 tháng 12 năm 1943 đến ngày 14 tháng 4 năm
**USS _Bataan_ (CVL-29/AVT-4)** là một tàu sân bay hạng nhẹ tải trọng 11.000 tấn thuộc lớp _Independence_ được Hải quân Hoa Kỳ đưa vào sử dụng trong Chiến tranh thế giới 2. Bataan là tên
**Chiến tranh Xô–Đức 1941–1945** là một cuộc chiến giữa Liên Xô và Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai, trải dài khắp Bắc, Nam và Đông Âu từ ngày 22 tháng 6 năm 1941
**Supermarine Spitfire** là một mẫu máy bay tiêm kích, máy bay đánh chặn một chỗ ngồi của Anh được Không quân Hoàng gia Anh và nhiều nước Đồng Minh sử dụng trong Chiến tranh thế
Vào cuối tháng năm đầu tháng 6 năm 1942 trong cuộc chiến Thái Bình Dương, các tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản đã mở nhiều cuộc **tấn công vào thành phố Sydney
**Omaha**, hay **Bãi Omaha**, là định danh của một trong năm khu vực đổ bộ của quân đội Đồng Minh trong Chiến dịch Neptune - chiến dịch đổ bộ đường biển kết hợp đường không
**Chiến dịch Pedestal** (, **Trận chiến giữa tháng Tám**), được người dân Malta gọi là **** (, **Đoàn vận tải Santa Maria**), là một chiến dịch tiếp vận đảo Malta của Hải quân Hoàng gia
**Chiến dịch tấn công chiến lược Iaşi–Chişinău** hay **Chiến dịch tấn công chiến lược Jassy-Kishinev** (,, gọi tắt là **Chiến dịch Iaşi-Chişinău** hay **Chiến dịch Jassy-Kishinev** là một chiến dịch tấn công chiến lược của
Mitsubishi **A6M Zero** (**A** để chỉ máy bay tiêm kích hoạt động trên tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, kiểu thứ **6**, **M** viết tắt cho Mitsubishi) là máy bay tiêm
**Franklin Delano Roosevelt, Sr.** (, ; 30 tháng 1 năm 188212 tháng 4 năm 1945), thường được gọi tắt là **FDR**, là một chính trị gia và luật sư người Mỹ, tổng thống thứ 32
**Vladivostok** (tiếng Nga: Владивосто́к) là thủ phủ và là trung tâm hành chính của Vùng liên bang Viễn Đông và Primorsky Krai thuộc Nga, nằm quanh vịnh Zolotoy Rog (tiếng Nga: Золотой Рог), gần biên
**M4 Sherman,** tên chính thức là **Xe tăng hạng trung M4** (Medium Tank M4), là loại xe tăng hạng trung được quân đội Hoa Kỳ và các nước Đồng minh Tây Âu sử dụng rộng
**North American Aviation P-51 Mustang** là một máy bay tiêm kích một chỗ ngồi tầm xa của Hoa Kỳ được sử dụng trong Chiến tranh thế giới thứ hai và Chiến tranh Triều Tiên. Chiếc
Paris 1878 Paris 2008 **Biên niên sử Paris** ghi lại các sự kiện của thành phố Paris theo thứ tự thời gian. Xem thêm hai bài Lịch sử Paris và Lịch sử Pháp để hiểu
**Xe tăng T–34** là một xe tăng hạng trung sản xuất bởi Liên Xô từ năm 1940 đến năm 1958, chủ yếu được sử dụng trong Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại (1941-1945). T-34 đã