✨Franklin D. Roosevelt
Franklin Delano Roosevelt, Sr. (, ; 30 tháng 1 năm 188212 tháng 4 năm 1945), thường được gọi tắt là FDR, là một chính trị gia và luật sư người Mỹ, tổng thống thứ 32 của Hoa Kỳ từ năm 1933 cho đến khi qua đời năm 1945. Là thành viên Đảng Dân chủ, ông là tổng thống duy nhất trong lịch sử Hoa Kỳ đã đắc cử 4 nhiệm kỳ liên tiếp và trở thành nhân vật trung tâm trong các sự kiện thế giới vào nửa đầu thế kỷ 20. Roosevelt đã chỉ đạo chính phủ liên bang trong phần lớn thời kỳ Đại khủng hoảng, thực hiện chương trình nghị sự nội địa New Deal nhằm đối phó với cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Với tư cách là nhà lãnh đạo thống trị của đảng mình, ông đã xây dựng Liên minh New Deal, một tổ chức định hình nên chủ nghĩa tự do hiện đại ở Hoa Kỳ trong suốt một phần ba thế kỷ 20. Nhiệm kỳ thứ ba và thứ tư của ông bị chi phối bởi Chiến tranh thế giới thứ hai, kết thúc ngay sau khi ông qua đời.
Sinh ra trong gia đình Roosevelt ở Hyde Park, New York, ông tốt nghiệp cả Trường Groton và Đại học Harvard. Roosevelt theo học Trường Luật Columbia, nhưng tại đây ông đã thôi học sau khi vượt qua kỳ thi luật để hành nghề luật sư ở Thành phố New York. Năm 1905, ông kết hôn với người em họ thứ năm của mình, Eleanor Roosevelt. Họ có với nhau sáu người con, trong đó có năm người sống sót đến tuổi trưởng thành. Ông thắng cử vào Thượng viện New York năm 1910, và sau đó làm Phụ tá Bộ trưởng Hải quân dưới thời Tổng thống Woodrow Wilson trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Roosevelt là người đồng tranh cử cùng với James M. Cox đại diện cho Đảng Dân chủ trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1920, nhưng Cox đã bị ứng cử viên Đảng Cộng hòa Warren G. Harding đánh bại. Năm 1921, Roosevelt mắc một chứng bệnh gây liệt bán thân, mà khi đó người ta tin rằng đó là bệnh bại liệt, và đôi chân của ông đã bị liệt vĩnh viễn. Trong quá trình hồi phục, Roosevelt đã thành lập một trung tâm điều trị bệnh bại liệt ở Warm Springs, Georgia. Mặc dù không thể đi lại tự do, Roosevelt đã trở lại chính trường sau khi đắc cử chức thống đốc New York vào năm 1928. Ông giữ chức thống đốc từ năm 1929 đến năm 1933, thúc đẩy kế hoạch chống lại cuộc khủng hoảng kinh tế đang bao vây nước Mỹ.
Trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1932, Roosevelt đã đánh bại tổng thống đương nhiệm Herbert Hoover của Đảng Cộng hòa ở một trong những chiến thắng vang dội nhất lịch sử Hoa Kỳ. Nhiệm kỳ tổng thống của Roosevelt bắt đầu vào giữa cuộc Đại khủng hoảng và trong 100 ngày đầu tiên của Quốc hội Hoa Kỳ lần thứ 73, ông là tiên phong trong việc nâng cao năng suất luật pháp liên bang, một điều chưa từng có. Roosevelt đã kêu gọi lập ra các chương trình được thiết kế nhằm mục đích sản xuất hàng cứu trợ, phục hồi và cải cách. Trong năm đầu tiên làm tổng thống, ông bắt đầu thực hiện các chính sách này thông qua một loạt các lệnh hành pháp và luật liên bang được gọi là New Deal. Nhiều chương trình New Deal đã cung cấp hàng cứu trợ cho những người thất nghiệp như Cơ quan Quản lý Phục hồi Quốc gia. Một số chương trình New Deal và luật liên bang khác như Đạo luật Điều chỉnh Nông nghiệp đã cung cấp sự hỗ trợ cho những người nông dân. Roosevelt còn thiết lập nhiều cải cách quy định lớn liên quan đến tài chính, truyền thông và lao động. Ngoài kinh tế, Roosevelt cũng tìm cách hạn chế số lượng tội phạm đang gia tăng do ảnh hưởng của Luật cấm rượu. Sau khi cam kết bãi bỏ nó trong quá trình tranh cử tổng thống, Roosevelt đã thực hiện Đạo luật Giấy phép Bia năm 1933 và thi hành tu chính án thứ 21. Tiền thuế thu được từ việc bán rượu sẽ được chuyển cho các công trình công cộng như một phần của New Deal. Roosevelt nói chuyện trực tiếp với người dân Mỹ trên sóng phát thanh. Trong nhiệm kỳ tổng thống của mình, Roosevelt đã có 30 "bài trò chuyện bên lò sưởi" và là tổng thống Mỹ đầu tiên xuất hiện trên truyền hình. Với nền kinh tế được cải thiện nhanh chóng từ năm 1933 đến năm 1936, Roosevelt đã giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1936. Bất chấp sự phổ biến của New Deal, nhiều thành viên trong Tòa án tối cao Hoa Kỳ vẫn giữ thái độ bảo thủ và thường xuyên loại bỏ các sáng kiến New Deal. Sau cuộc bầu cử, ông đã tìm cách chống lại điều đó bằng cách vận động hành lang cho Dự luật Cải cách Thủ tục Tư pháp năm 1937 (hay "kế hoạch lấp đầy tòa án"), sẽ giúp mở rộng quy mô của Tòa án tối cao. Dự luật đã bị ngăn cản bởi Liên minh Bảo thủ lưỡng đảng mới vừa được thành lập, liên minh này cũng tìm cách ngăn cản bổ sung thêm luật New Deal; hậu quả là nền kinh tế lâm vào khủng hoảng, kéo theo sự suy thoái trong những năm 1937–1938. Các đạo luật và cơ quan ban ngành khác ở thập niên 1930 được Roosevelt thi hành bao gồm Ủy ban Chứng khoán và Giao dịch, Đạo luật Quan hệ Lao động Quốc gia, Công ty Bảo hiểm Ký thác, Cục An sinh Xã hội và Đạo luật Tiêu chuẩn Công bằng Lao động.
Ông tái đắc cử nhiệm kỳ thứ ba vào năm 1940, khiến ông trở thành tổng thống Hoa Kỳ duy nhất phục vụ hơn hai nhiệm kỳ. Đến năm 1939, một cuộc Thế chiến khác đã nổ ra, Hoa Kỳ phản ứng bằng việc thông qua một loạt dự luật khẳng định sự trung lập và từ chối can thiệp. Mặc dù vậy, Roosevelt đã hỗ trợ ngoại giao và tài chính mạnh mẽ cho Trung Quốc, Vương quốc Anh và cuối cùng là Liên Xô. Sau cuộc tấn công Trân Châu Cảng của Nhật Bản vào ngày 7 tháng 12 năm 1941, sự kiện mà ông gọi là "một ngày sẽ sống trong nỗi ô nhục", Roosevelt đã đưa ra lời tuyên chiến chính thức đối với Nhật Bản. Khi Đức và Ý tuyên chiến với Mỹ để đáp trả, Mỹ chính thức bước vào chiến trường châu Âu. Được sự hỗ trợ của cố vấn cấp cao Harry Hopkins cùng sự ủng hộ mạnh mẽ từ dân chúng trong nước, ông đã hợp tác chặt chẽ với Thủ tướng Anh Winston Churchill, Tổng Bí thư Liên Xô Joseph Stalin và Tổng thống lĩnh Trung Quốc Tưởng Giới Thạch trong việc lãnh đạo khối Đồng Minh chống lại phe Trục. Roosevelt đã giám sát việc vận động nền kinh tế Hoa Kỳ để hỗ trợ chiến tranh và thực hiện chiến lược châu Âu trước tiên, khởi xướng chương trình Lend-Lease và ưu tiên đánh bại Đức trước Nhật Bản. Chính quyền của ông giám sát việc xây dựng Lầu Năm Góc, khởi xướng quá trình phát triển bom nguyên tử đầu tiên trên thế giới và cùng các nhà lãnh đạo Đồng Minh khác đặt nền móng cho Liên Hợp Quốc và các tổ chức hậu chiến khác. Chính dưới sự lãnh đạo thời chiến của ông, Hoa Kỳ đã trở thành một siêu cường trên thế giới.
Roosevelt tiếp tục tái đắc cử trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1944 trên nền tảng phục hồi sau chiến tranh. Sức khỏe thể chất của ông bắt đầu giảm sút trong những năm chiến tranh sau đó. Chưa đầy ba tháng sau nhiệm kỳ thứ tư của mình, Roosevelt qua đời vào ngày 12 tháng 4 năm 1945. Phó Tổng thống Harry Truman nhậm chức tổng thống và giám sát việc chấp nhận sự đầu hàng từ phe Trục. Một số hành động của Roosevelt đã vấp phải sự chỉ trích, chẳng hạn như việc ông ra lệnh di dời và giam giữ những người Mỹ gốc Nhật, cũng như quyết định phá vỡ truyền thống bằng việc tranh cử nhiệm kỳ thứ ba. Tuy nhiên, ông luôn được những học giả, nhà khoa học chính trị và sử gia xếp hạng là một trong ba vị tổng thống Hoa Kỳ vĩ đại nhất, bên cạnh George Washington và Abraham Lincoln.
Thiếu thời
Franklin Delano Roosevelt sinh ngày 30 tháng 1 năm 1882 tại thị trấn Hyde Park thuộc thung lũng sông Hudson, tiểu bang New York. Ông là con của doanh nhân James Roosevelt I và người vợ thứ hai, Sara Ann Delano đều xuất thân từ những gia đình giàu có lâu đời ở tiểu bang New York. Họ nội của Franklin là người gốc Hà Lan trong khi họ ngoại đến từ Pháp. Franklin là người con duy nhất của gia đình.
Họ Roosevelt có nguồn gốc từ tiếng Hà Lan "van Rosevelt", nghĩa là "cánh đồng hoa hồng".
Roosevelt lớn lên trong một môi trường sống với nhiều đặc quyền. Bà nội của Franklin, Mary Rebecca Aspinwall, là chị em họ với Elizabeth Kortright Monroe, phu nhân tổng thống thứ năm của Hoa Kỳ, James Monroe. Còn ông ngoại của Franklin, Warren Delano, Jr., là hậu duệ của những nhà lập quốc đến đất Mỹ trên tàu Mayflower, Richard Warren, Isaac Allerton, Degory Priest, và Francis Cooke, từng làm giàu nhờ buôn nha phiến tại Trung Hoa.
Sara là bà mẹ độc đoán, trong khi James là ông bố xa cách (James đã 54 tuổi khi Franklin chào đời). Sara có nhiều ảnh hưởng trên chàng thanh niên Franklin. Các chuyến đi thường xuyên đến Âu châu giúp Franklin thông thạo tiếng Đức và tiếng Pháp. Cậu cũng học cách cưỡi ngựa, bắn súng, chèo thuyền, chơi pô-lô và tennis trên sân cỏ.
Roosevelt đến học tại trường nội trú Groton thuộc giáo hội Anh giáo tại tiểu bang Massachusetts. Tại đây, Franklin tiếp nhận ảnh hưởng của hiệu trưởng Endicott Peabody, người đã dạy cho cậu hiểu rằng nghĩa vụ của người tín hữu Cơ Đốc là giúp đỡ người kém may mắn, ông cũng khuyến khích học sinh tham gia tích cực vào các hoạt động cộng đồng. Roosevelt hoàn tất chương trình cử nhân tại trường đại học Harvard (Harvard College là một trường thuộc viện Đại học Harvard). Đang lúc học ở Harvard, người chú của Franklin là Theodore Roosevelt đắc cử tổng thống; chính phong thái lãnh đạo cương quyết của Theodore và nhiệt tâm cải cách đã biến ông thành hình mẫu lý tưởng và nhân vật anh hùng trong mắt Franklin. Năm 1902, Franklin gặp vợ tương lai của mình là Anna Eleanor Roosevelt, cháu gái của Theodore trong một buổi tiếp tân tại Nhà Trắng. Eleanor là cháu gái họ năm đời của FDR. Cả hai đều là hậu duệ của một người Hà Lan tên Claes Martensz van Rosenvelt (Roosevelt) đến vùng đất New Amsterdam (nay là Manhattan của thành phố New York) từ Hà Lan trong thập niên 1640. Hai người cháu của Rosenvelt (Roosevelt), Johannes và Jacobus, là tổ phụ của hai chi tộc họ Roosevetl tại Long Island và sông Hudson theo thứ tự vừa kể. Eleanor và Theodore là hậu duệ của tộc Johannes trong khi FDR thuộc tộc Jacobus.
Roosevelt còn có những mối quan hệ lãng mạn bên ngoài hôn nhân. Một trong những mối quan hệ này là với cô thư ký của Eleanor, Lucy Mercer, chỉ một thời gian ngắn sau khi Mercer đến nhận việc vào đầu năm 1914. Tháng 9 năm 1918, nhờ những bức thư tình tìm thấy trong hành lý của Franklin mà Eleanor phát hiện ra mối quan hệ này. Eleanor đến gặp chồng với những bức thư trên tay và yêu cầu ly dị. Qua trung gian của Louis Howe, một cố vấn của Franklin, hai người hòa giải với nhau, nhưng trong thời gian còn lại của cuộc hôn nhân, Eleanor đến sống một mình trong một ngôi nhà ở Hyde Park tại Valkill."
Sự nghiệp chính trị ban đầu (1910–1920)
Thượng nghị sĩ bang New York (1910–1913)
thumb|upright|Roosevelt ủng hộ Thống đốc [[Woodrow Wilson trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1912.]] thumb|upright|[[Theodore Roosevelt là anh họ xa của Franklin Roosevelt và cũng là người có tầm ảnh hưởng quan trọng đến sự nghiệp của ông.]] Năm 1910, Roosevelt tranh cử vào Thượng viện tiểu bang New York, đại diện cho một khu vực thuộc Quận Dutchess. Đây là một khu vực bao quanh thị trấn Hyde Park mà từ năm 1884 chưa có một ứng viên Đảng Dân chủ nào đắc cử ở đây. Tham gia cuộc đua, Roosevelt là hình ảnh gắn kết với sự giàu có, đặc quyền và ảnh hưởng tại Hudson Valley. Chiến thắng vang dội của Đảng Dân chủ năm ấy đã đưa Roosevelt đến thủ phủ tiểu bang là Albany. Roosevelt nhậm chức ngày 1 tháng 1 năm 1911 và trở thành thủ lĩnh nhóm "phản loạn" chống đối bộ máy chính trị "Tammany Hall" (nhóm chính trị thuộc Đảng Dân chủ luôn đóng vai trò chính kiểm soát chính trường thành phố New York) là nhóm đang chi phối Đảng Dân chủ của tiểu bang. Cuộc bầu cử Thượng viện Hoa Kỳ được bắt đầu với việc bầu cử sơ bộ của Đảng Dân chủ vào ngày 16 tháng 1 năm 1911 có kết quả bế tắc vì sự tranh giành của hai phe phái trong 74 ngày. Ngày 31 tháng 3, James A. O'Gorman được bầu và Roosevelt đạt được mục tiêu của mình: đó là chọc giận bộ máy chính trị Tammany Hall bằng cách ngăn chặn người mà nhóm này chọn lựa làm ứng cử viên là William F. Sheehan. Chẳng bao lâu sau đó, Roosevelt trở nên một khuôn mặt quen thuộc đối với các Đảng viên Dân chủ New York. Ông tái đắc cử nhiệm kỳ hai trong cuộc bầu cử tiểu bang năm 1912 nhưng từ chức thượng nghị sĩ tiểu bang vào ngày 17 tháng 3 năm 1913 để nhận bổ nhiệm làm Trợ tá Bộ trưởng Hải quân Hoa Kỳ.
Phụ tá Bộ trưởng Hải quân (1913–1919)
Roosevelt với tư cách Phụ tá Bộ trưởng Hải quân, 1913 Năm 1913, Woodrow Wilson bổ nhiệm Roosevelt vào chức vụ Phụ tá Bộ trưởng Hải quân Hoa Kỳ, phục vụ dưới quyền của Bộ trưởng Josephus Daniels. Năm 1914, Roosevelt thất bại trước James W. Gerard, một người được nhóm Tammany Hall ủng hộ, trong cuộc bầu cử sơ bộ của Đảng Dân chủ tìm ứng viên cho cuộc chạy đua vào Thượng viện Hoa Kỳ. Trong vai trò phụ tá, Roosevelt tích cực hoạt động nhằm mở rộng quân chủng Hải quân và thành lập lực lượng Hải quân Trù bị. Tổng thống Wilson gửi lực lượng Hải quân và Thủy quân Lục chiến can thiệp vào các quốc gia vùng Trung Mỹ và Caribbe. Trong một loạt các bài diễn văn đọc chiến dịch vận động tranh cử chức vụ Phó Tổng thống vào năm 1920, Roosevelt tuyên bố rằng, với tư cách Phụ tá Bộ trưởng Hải quân, chính ông đã soạn bản hiến pháp mà Hoa Kỳ áp đặt cho Haiti năm 1915.
Tình cảm đặc biệt của Roosevelt đối với Hải quân dần dần phát triển và kéo dài suốt cuộc đời ông. Tại Bộ Hải quân, ông đã thể hiện tài năng lớn trong kỹ năng quản trị cũng như mau chóng học biết cách đàm phán với giới lãnh đạo Quốc hội và các bộ ngành khác trong chính phủ để vận động thông qua ngân sách. Ông là người nhiệt tình ủng hộ phương sách sử dụng tàu ngầm như là một loại công cụ hữu hiệu nhằm đối phó với hiểm họa bị tấn công bởi tàu ngầm Đức nhắm vào tàu thủy của phe Đồng minh: ông đề xuất việc xây dựng hàng rào thủy lôi ở Biển Bắc từ Na Uy đến Scotland. Mùa hè năm 1918, Roosevelt đến châu Âu để thị sát các căn cứ hải quân và gặp gỡ các quan chức Pháp và Anh. Vào tháng 9, ông trở về Hoa Kỳ trên tàu USS Leviathan. Trong chuyến hành trình kéo dài 11 ngày, đại dịch cúm đã tấn công và giết chết nhiều người trên tàu. Roosevelt bị bệnh nặng do cúm và biến chứng viêm phổi, nhưng đã bình phục vào thời điểm con tàu cập bến New York. Sau khi Đức ký hiệp định đình chiến vào tháng 11 năm 1918, Daniels và Roosevelt giám sát việc giải ngũ của Hải quân. Đi ngược lại lời tham mưu của các sĩ quan lớn tuổi như Đô đốc William Benson—người đã tuyên bố rằng ông không thể "hình dung được không quân có thể được sử dụng trong hạm đội vào việc gì"—Roosevelt đích thân ra lệnh duy trì Sư đoàn Hàng không trực thuộc Hải quân. Khi nhiệm kỳ của Wilson gần kết thúc, Roosevelt lên kế hoạch cho chiến dịch tranh cử tiếp theo của mình. Ông đã tiếp cận Herbert Hoover về việc tranh cử cho vị trí ứng cử viên tổng thống của Đảng Dân chủ, còn Roosevelt là liên danh tranh cử.
Vận động tranh cử phó tổng thống (1920)
thumb|left|Cox và Roosevelt tại Ohio, 1920 Đại hội Đảng toàn quốc năm 1920 của Đảng Dân chủ chọn Roosevelt là ứng viên Phó Tổng thống Hoa Kỳ trong liên danh tranh cử tổng thống của Thống đốc tiểu bang Ohio là James M. Cox. Tuy nhiên liên danh tranh cử của Cox-Roosevelt bị liên danh tranh cử của phe Cộng hòa là Warren G. Harding đánh bại thảm hại trong cuộc bầu cử tổng thống. Lúc đó Roosevelt trở về hành nghề pháp lý tại New York và gia nhập Câu lạc bộ Civitan New York vừa mới được thành lập, nhưng ít có ai nghĩ rằng một ngày không xa ông sẽ quay trở lại tranh cử vào một chức vụ công.
Bệnh bại liệt và tái xuất chính trị (1921–1928)
Trong lúc đang đi nghỉ ở Đảo Campobello vào tháng 8 năm 1921, Roosevelt bị nhiễm bệnh mà theo các bác sĩ của ông tin là bệnh bại liệt, dẫn đến tình trạng bị bại liệt hoàn toàn và vĩnh viễn từ thắt lưng trở xuống. Trong quãng đời còn lại, ông không bao giờ chấp nhận mình bị bại liệt vĩnh viễn. Ông cố thử nhiều cách trị liệu vật lý, kể cả thủy liệu pháp (hydrotherapy). Trong năm 1926, ông mua một khu nghỉ dưỡng ở Warm Springs, Georgia. Tại đây ông thành lập một trung tâm thủy liệu pháp cho bệnh nhân bại liệt. Trung tâm này vẫn còn hoạt động cho đến ngày nay với tên gọi Viện Phục hồi Roosevelt Warm Springs. Sau khi trở thành Tổng thống Hoa Kỳ, Roosevelt giúp thành lập Quỹ Quốc gia cho Trẻ em bại liệt, ngày nay được gọi là "March of Dimes" (tạm dịch: cuộc đi bộ của tiền kim loại 10 xu). Chính vì sự lãnh đạo của ông trong tổ chức này nên hình ông được khắc trên đồng tiền kim loại 10 xu (tại Hoa Kỳ gọi là dime).
Thời ấy, cuộc sống riêng tư của các nhân vật của công chúng không bị soi mói cặn kẽ như ngày nay nên ông có thể thuyết phục nhiều người nghĩ rằng sức khỏe của ông đã khá hơn nhiều, cũng như tin rằng ông có thể gánh vác trọng trách quốc gia lần nữa. Với những thanh sắt kẹp vào hông và chân, Roosevelt tự mình tập bước đi trong những khoảng cách ngắn với sự trợ giúp của một cây gậy. Trong chỗ riêng tư ông sử dụng một chiếc xe lăn, nhưng không bao giờ để công chúng thấy hình ảnh ông ngồi trên xe lăn. Roosevelt thường xuất hiện trước công chúng trong tư thế đứng thẳng người với một phụ tá hoặc một trong các con trai của ông đứng kế bên. Chiếc xe hơi của ông có bộ điều khiển tay được thiết kế đặc biệt giúp ông dễ dàng lái xe.
Năm 2003, một cuộc nghiên cứu chuyên ngành cho thấy căn bệnh của Roosevelt rất có thể là hội chứng Guillain-Barré, chứ không phải là bệnh bại liệt. Tuy nhiên, vì tủy sống của Roosevelt không được kiểm nghiệm nên nguyên nhân gây ra căn bệnh bại liệt của ông có thể chẳng bao giờ được xác định rõ ràng.
Thống đốc bang New York (1929–1932)
phải|nhỏ|Thống đốc Roosevelt cùng với Al Smith chụp hình tại thủ phủ Albany, New York, 1930.
Roosevelt duy trì liên lạc và hàn gắn rào cản cách biệt với Đảng Dân chủ trong suốt thập niên 1920, đặc biệt là tại New York. Mặc dù ông vẫn có tên trong thành phần chống đối bộ máy chính trị Tammany Hall của Thành phố New York nhưng ông giảm nhẹ thái độ của mình. Ông giúp Alfred E. Smith đắc cử thống đốc tiểu bang New York năm 1922, và thậm chí ông còn là một người ủng hộ tích cực cho Smith chống lại người cháu họ của mình là Đảng viên Cộng hòa Theodore Roosevelt, Jr. năm 1924. Roosevelt đã đọc diễn văn đề cử Smith trong các đại hội toàn quốc của Đảng Dân chủ năm 1924 và 1928. Với tư cách là ứng viên tổng thống của Đảng Dân chủ trong cuộc bầu cử tổng thống vào năm 1928, Smith đáp lại bằng cách yêu cầu Roosevelt ra tranh cử chức thống đốc tiểu bang New York năm 1928. Trong khi Smith thất cử tổng thống một cách thảm bại, thậm chí thua tại ngay tiểu bang nhà của mình thì Roosevelt đắc cử thống đốc với tỉ lệ sít sao.
Trong vai trò một thống đốc cải cách, ông lập ra một số chương trình xã hội mới, được Frances Perkins và Harry Hopkins cố vấn.
Trong cuộc vận động tái tranh cử năm 1930, Roosevelt cần sự thiện chí của nhóm Tammany Hall ở Thành phố New York; Tuy nhiên, đối thủ của ông thuộc Đảng Cộng hòa là Charles H. Tuttle đã nêu chuyện tham nhũng của nhóm Tammany Hall ra làm vấn đề tranh cử. Khi bầu cử sắp đến, Roosevelt ra lệnh điều tra việc mua bán các chức vụ tư pháp. Ông đắc cử nhiệm kỳ hai với con số cách biệt khoảng 700.000 phiếu.
Bầu cử Tổng thống năm 1932
thumb|Roosevelt vào đầu những năm 1930
Nhờ hậu thuẫn của tiểu bang đông dân nhất mà Roosevelt trở thành ứng viên sáng giá trong cuộc chạy đua tranh sự đề cử của Đảng Dân chủ. Song cuộc đua trở nên quyết liệt hơn khi có những dấu hiệu cho thấy tổng thống đương nhiệm, Herbert Hoover, sẽ thất bại trong kỳ bầu cử tổng thống năm 1932. Al Smith được một số đại gia thành phố hậu thuẫn nhưng mất quyền kiểm soát Đảng Dân chủ tại tiểu bang New York vào tay Roosevelt. Roosevelt tự xây dựng một liên minh toàn quốc với những đồng minh riêng của mình như trùm báo chí William Randolph Hearst, lãnh tụ cộng đồng Ái Nhĩ Lan Joseph P. Kennedy và nhà lãnh đạo tiểu bang California William G. McAdoo. Khi nhà lãnh đạo tiểu bang Texas John Nance Garner quay sang ủng hộ FDR thì vị lãnh đạo này được đề cử vào chức vụ phó tổng thống trong liên danh tranh cử của Roosevelt.
Trong bài diễn văn nhận đề cử của Đảng Dân chủ, ông tuyên bố:
Cuộc vận động tranh cử được tiến hành dưới cái bóng của Đại khủng hoảng và cái liên minh mới mà cuộc vận động tranh cử đã tạo nên. Roosevelt và Đảng Dân chủ tổng động viên một phạm vi rộng lớn các tầng lớp xã hội bao gồm người nghèo cũng như các công đoàn lao động, sắc dân thiểu số, người thành thị, và người da trắng miền Nam Hoa Kỳ để tạo nên liên minh New Deal. Trong suốt thời gian tranh cử, Roosevelt thường nói: "Tôi xin cam kết với các bạn, Tôi xin cam kết với bản thân mình một đối sách mới ( a new deal) cho nhân dân Mỹ". Câu nói này đã tạo ra một khẩu hiệu mà sau đó được dùng làm tên cho chương trình hành động của chính phủ ông cũng như liên minh mới của ông.
thumb|upright=1.3|left|Kết quả bầu cử năm 1932
Nhà kinh tế học Marriner Eccles quan sát thấy rằng "Trong các giai đoạn phát triển sau đó của cuộc vận động tranh cử, các bài diễn văn tranh cử đọc giống như có nhiều chỗ sai sót mà trong đó cả Roosevelt và Hoover thường đọc các hàng chữ của nhau." Roosevelt tố cáo Hoover thất bại phục hồi thịnh vượng hoặc thậm chí thất bại trong việc kìm hãm đà xuống dốc của nền kinh tế. Ông mỉa mai con số thâm thủng ngân sách khổng lồ của Hoover. Roosevelt vận động tranh cử theo cương lĩnh của Đảng Dân chủ với chủ trương "cắt giảm mạnh và ngay tức khắc tất cả chi tiêu công cộng", "bãi bỏ các cơ quan và các Ủy ban vô dụng, kết hợp lại các cơ quan văn phòng và loại trừ lãng phí quan liêu." Ngày 23 tháng 9, Roosevelt đưa ra nhận định u ám rằng "bộ máy công nghiệp của chúng ta được xây dựng; vấn đề hiện nay là có phải chăng dưới những điều kiện hiện tại nó được xây quá mức hay không. Giới hạn cuối cùng của chúng ta đã đến đích từ lâu rồi." Hoover chê trách chủ nghĩa bi quan đó như là một sự phủ nhận "triển vọng của cuộc sống Mỹ... đó là chỉ dẫn đầy tuyệt vọng." Vấn đề cấm rượu cồn củng cố thêm số phiếu mới cho Roosevelt vì ông cho rằng việc bãi bỏ cấm rượu cồn sẽ mang lại thêm tiền thu nhập mới qua đánh thuế.
Roosevelt chiến thắng với 57% số phiếu phổ thông và thắng tại tất cả trừ 6 tiểu bang. Các sử gia và khoa học gia chính trị cho rằng các cuộc bầu cử năm 1932-36 là cuộc bầu cử tái phối trí cử tri (realigning election) tạo ra một liên minh lớn mới cho Đảng Dân chủ, vì thế chuyển đổi nền chính trị Mỹ và khởi sự cái gọi là "Hệ thống Đảng New Deal" hay (theo các nhà khoa học chính trị) Hệ thống Đảng phái lần thứ 5.
Sau cuộc bầu cử, Roosevelt từ chối lời thỉnh cầu họp bàn với Hoover để thảo ra một chương trình phối hợp nhằm chấm dứt chiều hướng đi xuống của nền kinh tế và trấn an giới đầu tư. Lý do từ chối của ông là điều đó có thể sẽ trói buộc ông. Nền kinh tế lao xuống vực thẳm cho đến khi hệ thống ngân hàng bắt đầu ngưng hoạt động hoàn toàn trên toàn quốc khi nhiệm kỳ tổng thống của Hoover kết thúc. Tháng 2 năm 1933, Roosevelt thoát chết trong một vụ có thể là mưu sát bởi tay súng Giuseppe Zangara (vụ này làm chết Thị trưởng thành phố Chicago là Anton Cermak đang ngồi kế bên ông). Roosevelt gửi thác sự tin cậy của mình vào nhiều nhóm cố vấn khoa bảng của mình, đặc biệt là Raymond Moley khi ông soạn thảo các chính sách.
Nhiệm kỳ tổng thống (1933–1945)
Nhiệm kỳ thứ nhất và thứ hai (1933–1941)
Khi Roosevelt tuyên thệ nhậm chức vào ngày 4 tháng 3 năm 1933, nước Mỹ đang ở thời điểm tồi tệ nhất của cuộc khủng hoảng lớn nhất trong lịch sử. Một phần tư lực lượng lao động mất việc làm. Nông dân đang khốn đốn vì nông phẩm hạ giá 60%. Sản xuất công nghiệp chỉ còn hơn một nửa so với cùng kỳ năm 1929. Hai triệu người trở thành vô gia cư. Vì thiếu việc làm nên các tổ chức tội phạm và giới sống ngoài pháp luật ngày càng gia tăng. Chiều ngày 4 tháng 3, tất cả ngân hàng tại 32 trên 48 tiểu bang cũng như Đặc khu Columbia đều đóng cửa. Ngày 5 tháng 3, Ngân hàng Dự trữ Liên bang tại New York không thể mở cửa, do khách hàng hốt hoảng rút một khối lượng lớn tiền mặt trong những ngày trước đó.
Khởi đầu bài diễn văn nhậm chức, Roosevelt quy kết trách nhiệm cuộc khủng hoảng kinh tế lên giới ngân hàng và doanh nhân tài chính, lòng hám lợi, và nền tảng vị kỷ của chủ nghĩa tư bản:
Các sử gia xếp loại chương trình của Roosevelt là "cứu nguy, hồi phục và cải cách". Cứu nguy là vấn đề cấp bách vì có đến hàng chục triệu người thất nghiệp. Hồi phục có nghĩa là thúc đẩy nền kinh tế quay trở về trạng thái bình thường. Cải cách có nghĩa là sửa chữa dài hạn những gì sai trái, đặc biệt là với hệ thống ngân hàng và tài chính. Trong 30 lần nói chuyện buổi tối trên sóng phát thanh, được biết đến là "fireside chats", Roosevelt đã giới thiệu những đề nghị của ông trực tiếp đến công chúng Mỹ.
New Deal lần thứ nhất (1933–1934)
"Một trăm ngày đầu tiên" của Roosevelt tập trung vào phần đầu của chiến lược: cứu trợ khẩn cấp. Từ ngày 9 tháng 3 đến 16 tháng 6 năm 1933, ông đệ trình Quốc hội con số kỷ lục các dự luật, và tất cả đều được thông qua. Tổng thống phải dựa vào những thượng nghị sĩ như George Norris, Robert F. Wagner và Hugo Black cũng như nhóm cố vấn chuyên môn được tuyển chọn từ giới trí thức khoa bảng để thiết kế các chương trình hành động. Giống Hoover, Roosevelt xem cuộc Đại Suy thoái một phần là do khủng hoảng niềm tin vì người dân cảm thấy e ngại khi quyết định chi tiêu hoặc đầu tư.
Lễ nhậm chức của Roosevelt vào ngày 4 tháng 3 năm 1933 diễn ra khi nước Mỹ đang trong tình trạng hốt hoảng vì sự sụp đổ của hệ thống ngân hàng. Tình huống này cho ra đời câu nói nổi tiếng của ông: "Điều duy nhất mà chúng ta nên sợ hãi là nỗi sợ của chính mình". Ngay hôm sau, Quốc hội Hoa Kỳ thông qua Đạo luật Ngân hàng Khẩn cấp (Emergency Banking Act) tuyên bố một "ngày lễ ngân hàng" và thông báo một chương trình cho phép các ngân hàng mở cửa lại. Tuy nhiên, con số các ngân hàng mở cửa sau "ngày lễ" ít hơn con số ngân hàng từng mở cửa trước đây. Đây là bước đề nghị đầu tiên của ông về phục hồi kinh tế. Để tạo lòng tin của dân chúng Mỹ đối với hệ thống ngân hàng, Roosevelt ký Đạo luật Glass-Steagall để lập ra Federal Deposit Insurance Corporation gọi tắt là FDIC (tạm dịch là Công ty Bảo hiểm Tiền gửi ngân hàng Liên bang).
nhỏ|phải|Hình chụp "Bà mẹ di cư" của [[Dorothea Lange miêu tả số phận hẩm hiu của những lao công thu hoạch đậu trong thời kỳ suy thoái. Tâm điểm là Florence Owens Thompson, 32 tuổi, có bảy con, được chụp vào tháng 3 năm 1936]]
- Kế hoạch cứu trợ của Roosevelt gồm có việc tiếp tục chương trình cứu trợ của Hoover nhưng mang một tên mới, Cơ quan Cứu trợ Khẩn cấp Liên bang. Cơ quan nổi bật nhất trong số các cơ quan thuộc kế hoạch New Deal và cũng là cơ quan tâm đắc của Roosevelt là Đoàn Bảo trì Dân sự (Civilian Conservation Corps – CCC). Cơ quan này tuyển dụng 250.000 thanh niên thất nghiệp để làm việc cho các đề án địa phương tại vùng nông thôn. Quốc hội cũng dành cho Ủy ban Thương mại Liên bang quyền lực nới rộng nhằm lập ra các quy định kiểm soát và cung cấp cứu nguy tài chính cho hàng triệu nông gia và chủ sở hữu nhà. Roosevelt cho mở rộng Tập đoàn Tài chính Tái thiết do Hoover thành lập để biến nó thành nguồn cung cấp vốn chính cho ngành đường sắt và công nghiệp. Roosevelt xem việc cứu trợ nông nghiệp là ưu tiên cao, ông cho thiết lập Cơ quan Điều chỉnh Nông nghiệp với nhiệm vụ nâng cao giá nông sản bằng cách trả tiền cho nông gia ngưng canh tác và cắt giảm số thú nuôi.
- Cải cách nền kinh tế là mục tiêu của Đạo luật Khôi phục Công nghiệp Quốc gia (National Industrial Recovery Act – NIRA) năm 1933 nhằm chấm dứt tình trạng cạnh tranh khốc liệt bằng cách buộc các ngành công nghiệp phải tuân thủ bộ quy tắc ấn định cơ chế vận hành cho mọi công ty trong ngành như giá sàn, thỏa hiệp tránh cạnh tranh và định mức sản xuất. Các lãnh đạo công nghiệp thương thảo bộ quy tắc mà sau đó được các giới chức NIRA chấp thuận. Theo điều kiện để được NIRA chấp thuận, ngành công nghiệp phải tăng tiền lương. Những điều khoản này đã làm phấn chấn các công đoàn và đình chỉ các luật lệ chống cạnh tranh. Ngày 27 tháng 5 năm 1935, một phán quyết với sự đồng thuận của Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ tuyên bố NIRA là vi hiến. Phản ứng chống lại phán quyết này, Roosevelt nói, "Mục tiêu và nguyên lý căn bản của NIRA là đúng đắn. Hủy bỏ đạo luật là điều không thể tưởng tượng được. Nó có nghĩa là quay trở lại tình trạng hỗn loạn trong công nghiệp và lao động." Năm 1933, những quy định mới về ngân hàng được thông qua. Năm 1934, Ủy ban Giao dịch và Chứng khoán Hoa Kỳ được thành lập để kiểm soát Phố Wall với sự lãnh đạo của người vận động gây quỹ tranh cử năm 1932 là Joseph P. Kennedy.
- Chính sách phục hồi kinh tế được theo đuổi bằng phương sách "bơm vào tiền mồi" (chính là chi tiêu của liên bang). NIRA chi tiêu 3,3 tỷ USD cho Cơ quan Công chính do Bộ trưởng Nội vụ Hoa Kỳ Harold Ickes đảm trách nhằm kích thích nền kinh tế. Roosevelt cộng tác với Thượng nghị sĩ Đảng Cộng hòa George Norris để thành lập doanh nghiệp quốc doanh lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ là Cơ quan Thung lũng Tennessee (gọi tắt tiếng Anh là TVA) nhằm quản lý các đề án xây dựng đập nước, nhà máy điện, kiểm soát lũ, hiện đại hóa nông nghiệp và gia cư ở Thung lũng Tennessee nghèo khó. Việc bãi bỏ luật cấm rượu cồn cũng mang đến một nguồn thu nhập mới từ thuế và giúp ông giữ lời hứa trong lúc vận động tranh cử.
- Sắc lệnh Hành chính số 6102 đặt toàn bộ vàng cá nhân của công dân Hoa Kỳ thành tài sản ngân khố Hoa Kỳ. Mục đích là để đối phó tình trạng lạm phát đang hoành hành nền kinh tế.
Roosevelt cố gắng thực thi những điều ông đã hứa lúc tranh cử bằng cách cắt giảm ngân sách liên bang, bao gồm việc cắt giảm 40% phúc lợi dành cho cựu chiến binh và cắt giảm tổng thể chi tiêu quân sự. Ông cắt khỏi danh sách hưu bổng khoảng 500.000 cựu chiến binh và quả phụ cũng như cắt giảm phúc lợi đối với những người còn lại. Các cuộc biểu tình phản đối của các cựu chiến binh bùng phát. Roosevelt vẫn giữ vững lập trường của mình nhưng vào năm 1936 vì sức ép của các cựu chiến binh, đạo luật tiền thưởng khồng lồ được thông qua mặc dù bị ông phủ quyết. Ông thành công trong nỗ lực cắt giảm tiền lương chính phủ và ngân sách dành cho lục quân và hải quân. Ông giảm chi tiêu về nghiên cứu và giáo dục.
Roosevelt cũng giữ lời hứa xúc tiến việc bãi bỏ luật cấm rượu cồn. Tháng 4 năm 1933, ông ra chỉ thị hành chính định nghĩa nồng độ cồn 3,2% được phép tiêu dùng. Sắc lệnh này theo sau hành động của Quốc hội nhằm thảo ra và thông qua tu chính án hiến pháp số 21 mà sau đó được thông qua vào cùng năm đó.
New Deal lần thứ hai (1935–1936)
thumb|left|Roosevelt ký ban hành Đạo luật An sinh Xã hội, 14 tháng 8 năm 1935 Cuộc bầu cử quốc hội năm 1934 đã mang lại thuận lợi cho Roosevelt khi Đảng Dân chủ nắm đa số ghế áp đảo tại cả hai viện lập pháp. Đó cũng là lúc hình thành một cao trào mới cho New Deal trong quy trình lập pháp. Các quy trình lập pháp này gồm có việc thành lập ra Cơ quan Quản trị Tiến trình Xây dựng Công chánh (Works Progress Administration), viết tắt là WPA. Cơ quan quản lý này thiết lập ban cứu nguy quốc gia để thuê mướn 2 triệu gia trưởng trên toàn quốc. Tuy nhiên vào lúc đỉnh điểm thuê mướn của WPA năm 1938, tỉ lệ thất nghiệp vẫn cao khoảng 12,5% theo con số thống kê của Michael Darby. Đạo luật An sinh Xã hội thiết lập nên hệ thống an sinh xã hội và hứa hẹn nền an ninh kinh tế cho người già, người nghèo và người bệnh. Thượng nghị sĩ Robert Wagner thảo ra Đạo luật Wagner mà sau đó chính thức trở thành Đạo luật Quan hệ Lao động Quốc gia. Đạo luật này thiết lập quyền liên bang của công nhân được quyền thành lập công đoàn, quyền thương thuyết tập thể và quyền tham gia đình công.
Trong khi New Deal lần thứ nhất năm 1933 được đa số thành phần xã hội rộng rãi ủng hộ, New Deal lần thứ hai phải đối mặt với cộng đồng thương mại. Các Đảng viên Dân chủ bảo thủ, do Al Smith lãnh đạo, đánh trả bằng cách thành lập Liên đoàn Tự do Mỹ (American Liberty League). Họ tấn công Roosevelt một cách điên cuồng và so sánh ông với Marx và Lênin. Ngược lại, các công đoàn, được thêm năng lực nhờ vào Đạo luật Wagner, đã ký tên hàng triệu thành viên mới và trở thành lực lượng hậu thuẫn lớn cho các cuộc tái tranh cử của Roosevelt vào năm 1936, 1940 và 1944.
GNP và tỷ lệ thất nghiệp
Chi tiêu của chính phủ tăng từ 8,0% tổng sản lượng quốc gia dưới thời Tổng thống Hoover năm 1932 lên 10,2% tổng sản lượng quốc gia năm 1936. Vì khủng hoảng, nợ quốc gia tính theo phần trăm tổng sản lượng quốc gia tăng gấp đôi dưới thời Hoover từ 16% lên đến 33,6% tổng sản lượng quốc gia năm 1932. Mặc dù Roosevelt đã quân bình ngân sách "thường lệ" nhưng ngân sách khẩn cấp được tài trợ bằng tiền nợ đang tăng lên đến 40,9% năm 1936, và sau đó vẫn nằm ở mức đó cho đếnChiến tranh thế giới thứ hai thì tăng vọt nhanh chóng. Nợ quốc gia tăng dưới thời Hoover, duy trì ở mức đều đặn dưới thời FDR cho đến khi chiến tranh bắt đầu như được trình bày trong biểu đồ số 1. lang=vi|Nợ quốc gia tính từ 4 năm trước khi Roosevelt nhậm chức tổng thống cho đến 5 năm sau khi ông mất khi đang tại chức
Chi tiêu thâm thủng được một số nhà kinh tế học đề nghị, nổi bật là đề nghị của John Maynard Keynes từ Vương quốc Anh. Tổng sản lượng quốc gia năm 1936 là 34% cao hơn so với năm 1932 và 58% cao hơn trong năm 1940, trong đêm trước chiến tranh. Điều đó có nghĩa là nền kinh tế phát triển 58% từ năm 1932 đến năm 1940 trong khoảng thời gian 8 năm hòa bình, và rồi phát triển 56% từ 1940 đến 1945 trong khoảng thời gian 5 năm chiến tranh. Tuy nhiên, sự phục hồi kinh tế đã không làm nạn thất nghiệp mà Roosevelt thừa hưởng biến mất hoàn toàn. Thất nghiệp giảm đáng kể trong nhiệm kỳ đầu của Roosevelt từ 25% khi ông nhậm chức xuống còn 14,3% năm 1937. Tuy nhiên sau đó, nó lại gia tăng lên đến 19,0% năm 1938 ('khủng hoảng trong khủng hoảng') và 17,2% năm 1939, và vẫn giữ tỉ lệ cao này cho đến khi nó hoàn toàn biến mất trong suốt Chiến tranh thế giới thứ hai khi những người thất nghiệp trước đây được tuyển mộ quân dịch.
Suốt thời gian chiến tranh, nền kinh tế hoạt động dưới những điều kiện khác biệt nên việc so sánh với thời bình là không phù hợp. Tuy nhiên, Roosevelt coi các chính sách New Deal là tâm điểm di sản của ông. Trong bài Diễn văn về Tình trạng Liên bang năm 1944, ông chủ trương rằng người Mỹ nên coi quyền lợi kinh tế cơ bản như là một đạo luật nhân quyền thứ hai.
Nền kinh tế phát triển nhanh trong nhiệm kỳ của Roosevelt. Tuy nhiên, sự phát triển này được theo sau là tình trạng thất nghiệp liên tục ở mức độ cao; tỉ lệ thất nghiệp trung bình trong thời New Deal là 17,2%. Suốt cả các nhiệm kỳ của ông, bao gồm những năm chiến tranh, tỉ lệ thất nghiệp trung bình là 13%. Tổng số thất nghiệp trong suốt nhiệm kỳ của ông nới rộng khoảng 18,31 triệu việc làm bị mất trong khi tỉ lệ gia tăng việc làm trung bình hàng năm dưới thời chính phủ của ông là 5,3%.
Roosevelt không tăng thuế thu nhập trước khi Chiến tranh thế giới thứ hai bắt đầu; tuy nhiên thuế sổ lương (payroll tax) cũng bắt đầu được đưa ra nhằm gây quỹ cho chương trình mới là An sinh Xã hội năm 1937. Ông cũng được Quốc hội Hoa Kỳ cho phép chi tiêu thêm cho nhiều chương trình và kế hoạch khác nhau mà chưa từng có trước đây trong lịch sử Hoa Kỳ. Tuy nhiên, dưới sức ép tài chính do Đại suy thoái gây ra, đa số các tiểu bang đều đưa ra thêm nhiều loại thuế hay tăng thuế trong đó có thuế thu nhập cũng như thuế gián thu. Việc Roosevelt đề nghị thu các loại thuế mới đối với tiền tiết kiệm của các công ty đã gây ra tranh cãi lớn trong 1936–37 nhưng cuối cùng chúng bị Quốc hội bác bỏ. Trong thời gian chiến tranh, ông thúc ép tăng tỉ lệ thuế thu nhập thậm chí cao hơn đối với cá nhân (lên đến một tỉ lệ thuế cận biên là 91%) và đại công ty, giới hạn mức lương cao đối với các viên chức lãnh đạo các công ty. Ông cũng phát Lệnh Hành pháp số 9250 vào tháng 10 năm 1942 nhằm tăng tỉ lệ thuế cận biên lên đến 100% đối với những ai có tiền lương vượt trên 25.000 đô la (sau thuế). Điều đó có nghĩa là giới hạn mức lương cao nhất là lên đến 25.000 đô la (khoảng chừng 334.000 đô la năm 2008). Tuy nhiên lệnh hành pháp này bị Quốc hội hủy bỏ sau đó. Để tài trợ chiến tranh, Quốc hội mở rộng thu thuế đối với hầu hết những ai đi làm đều phải trả thuế thu nhập liên bang. Thuế trả trước (thuế được trừ ra trước khi tiền lương được phát) được giới thiệu vào năm 1943.
Chính sách đối ngoại (1933–1941)
Việc không ký vào hiệp ước tham gia Hội Quốc Liên năm 1919 đã đánh dấu sự trỗi dậy mạnh mẽ của chủ nghĩa biệt lập trong chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ, không tham gia vào các tổ chức thế giới. Mặc dù Roosevelt có nền tảng chủ nghĩa Wilson, ông và bộ trưởng ngoại giao của ông là Cordell Hull đã hành động rất cẩn thận, tránh kích động chủ nghĩa biệt lập. Thông điệp gây xôn xao của Roosevelt gởi đến hội nghị tiền tệ thế giới năm 1933 thực sự kết thúc tất cả những nỗ lực lớn của các cường quốc nhằm hợp tác trong công cuộc kết thúc cuộc khủng hoảng thế giới, tạo cơ hội cho Roosevelt rảnh tay thực hiện chính sách kinh tế riêng của Hoa Kỳ.
Sáng kiến chính về chính sách ngoại giao trong nhiệm kỳ đầu tiên của Roosevelt là "Chính sách lân bang tốt". Đây là một sự tái định lượng chính sách của Hoa Kỳ đối với châu Mỹ La Tinh. Kể từ khi Học thuyết Monroe ra đời vào năm 1823, khu vực này đã từng được xem như là một vùng ảnh hưởng của Hoa Kỳ. Các lực lượng Mỹ rút khỏi Haiti. Các hiệp ước mới được ký kết với Cuba và Panama đã kết thúc tình trạng của họ là quốc gia được Hoa Kỳ bảo hộ. Tháng 12 năm 1933, Roosevelt ký văn kiện Hội nghị Montevideo về quyền lợi và nghĩa vụ của các quốc gia, từ bỏ quyền can thiệp đơn phương vào công việc nội bộ của các quốc gia châu Mỹ La Tinh.
Tái thắng cử lớn, 1936
Trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1936, Roosevelt vận động tranh cử dựa vào các chương trình New Deal của ông chống lại đối thủ Alf Landon, Thống đốc tiểu bang Kansas, là người chấp nhận phần lớn chương trình New Deal nhưng phản bác rằng nó không có lợi cho doanh nghiệp và quá nhiều lãng phí. Roosevelt và Garner chiến thắng với tỉ lệ 60,8% phiếu bầu phổ thông và chiến thắng gần như ở tất cả các tiểu bang, trừ Maine và Vermont. Các Đảng viên Dân chủ cũng thắng lớn, thậm chí trở thành khối đa số lớn hơn tại cả hai viện lập pháp của Quốc hội. Roosevelt được hậu thuẫn bởi một liên minh cử tri gồm các Đảng viên Dân chủ truyền thống trên toàn quốc, các nông gia nhỏ, cư dân miền Nam Hoa Kỳ, người công giáo La Mã, các cỗ máy thành phố lớn, các liên đoàn lao động, người Mỹ gốc châu Phi ở miền bắc, người Do Thái, giới trí thức và người theo chủ nghĩa tự do chính trị. Liên minh này thường được gọi là Liên minh New Deal, phần lớn không thay đổi sự hậu thuẫn cho Đảng Dân chủ cho đến thập niên 1960.
Tương phản đầy kịch tính so với nhiệm kỳ đầu tiên, có rất ít quy trình lập pháp lớn được thông qua trong nhiệm kỳ hai. Trong nhiệm kỳ này, Hoa Kỳ có được một Cơ quan đặc trách Gia cư Hoa Kỳ, một Đạo luật Điều chỉnh Nông nghiệp thứ hai và Đạo luật Tiêu chuẩn Lao động Công bằng năm 1938 cho ra đời lương tối thiểu. Khi nền kinh tế bắt đầu tồi tệ trở lại vào cuối năm 1937, Roosevelt đưa ra một chương trình kích cầu cấp tiến, xin Quốc hội chi 5 tỷ đô la cho công chánh và giải cứu Cơ quan Quản trị Tiến trình Xây dựng Công chánh (WPA). Sự kiện này giúp tạo ra đỉnh điểm 3,3 triệu việc làm do WPA quản lý vào năm 1938.
Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ là rào cản chính đối với những chương trình của Roosevelt trong suốt nhiệm kỳ hai vì nó lật ngược nhiều chương trình của ông. Đặc biệt là vào năm 1935, tối cao pháp viện đồng thanh phán quyết rằng Đạo luật Phục hồi Quốc gia (NRA) là một sự ủy thác quyền lực một cách vi hiến của ngành lập pháp trao cho tổng thống. Roosevelt làm sửng sốt Quốc hội vào đầu năm 1937 khi đề nghị một luật mới cho phép ông bổ nhiệm 5 thẩm phán tối cao pháp viện mới Kế hoạch "lấp đầy tòa án" này bị phản đối kịch liệt từ chính Đảng của ông, dẫn đầu là Phó Tổng thống Garner vì nó dường như làm đảo lộn tam quyền phân lập và trao cho tổng thống cả quyền kiểm soát ngành tư pháp. Đề nghị của Roosevelt bị thất bại. Tòa án cũng rút lại cuộc đối đầu với hành pháp bằng cách phán quyết rằng các Đạo luật An sinh Xã hội và Quan hệ Lao động là hợp hiến. Chẳng bao lâu sau đó, một số thẩm pháp Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ mất hoặc về hưu đã tạo cơ hội cho Roosevelt bổ nhiệm người của mình thay thế mà chỉ gặp phải một ít tranh cãi. Giữa năm 1937 và 1941, ông bổ nhiệm đến 8 thẩm phán tối cao pháp viện.
Roosevelt từng có hậu thuẫn rất lớn từ các công đoàn đang phát triển nhanh nhưng đến thời điểm này thì họ chia rẽ thành hai thành phần đối nghịch cay cú là Liên đoàn Lao động Mỹ (AFL) và Hội nghị Các tổ chức Công nghiệp (CIO). Thành phần thứ hai được John L. Lewis lãnh đạo. Roosevelt cảnh báo là có một "đại dịch lan tràn trong cả hai mái nhà của các bạn" nhưng sự chia rẽ vẫn tiếp tục và làm suy yếu Đảng Dân chủ trong các cuộc bầu cử từ năm 1938 đến năm 1946.
Vì quyết tâm vượt qua sự chống đối của các Đảng viên Dân chủ bảo thủ (đa số từ miền Nam Hoa Kỳ), Roosevelt tự dấn thân vào các cuộc bầu cử sơ bộ Đảng Dân chủ năm 1938, tích cực vận động cho các ứng viên có thái độ ủng hộ hơn dành cho chương trình cải cách New Deal. Những người mà ông nhắm mục tiêu triệt hạ đã tố cáo ông là tìm cách thâu tóm Đảng Dân chủ và dùng chiêu thức thuyết phục cử tri rằng họ độc lập để được tái đắc cử. Roosevelt bị thất bại chua cay, chỉ đánh gục được một mục tiêu, đó là một Đảng viên Dân chủ bảo thủ từ Thành phố New York.
Trong cuộc bầu cử tháng 11 năm 1938, Đảng Dân chủ mất 6 ghế thượng viện và 71 ghế hạ viện. Các ghế mất phần nhiều tập trung trong số các Đảng viên Dân chủ ủng hộ New Deal. Khi Quốc hội nhóm họp năm 1939, Đảng Cộng hòa dưới sự lãnh đạo của Thượng nghị sĩ Robert Taft lập ra một liên minh Bảo thủ cùng với các Đảng viên Dân chủ miền Nam Hoa Kỳ. Sự ra đời của liên minh bảo thủ này gần như kết thúc khả năng của Roosevelt đưa các đề nghị của mình lên quốc hội để được thông qua thành luật. Luật lương tối thiểu năm 1938 là một đạo luật cải cách New Deal đáng kể cuối cùng được quốc hội thông qua.
Chính sách ngoại giao, 1937–1941
nhỏ|phải|Tổng thống Roosevelt chào đón [[Manuel L. Quezon, Tổng thống thứ hai của Philippines, tại Washington, D.C.]] Sự kiện Adolf Hitler lên nắm quyền tại Đức dấy lên nỗi e sợ bùng nổ một cuộc thế chiến mới. Năm 1935, thời điểm Ý xâm lăng Ethiopia, Quốc hội Hoa Kỳ thông qua Đạo luật Trung lập, ra lệnh cấm vận chuyển vũ khí từ Mỹ đến các nước tham chiến. Roosevelt chống đối đạo luật dựa trên lập luận rằng đạo luật đang trừng phạt nạn nhân của sự xâm lược, trong trường hợp này là Ethiopia, đạo luật cũng hạn chế quyền hạn tổng thống trong nỗ lực trợ giúp các quốc gia thân thiện, song sự ủng hộ của công chúng dành cho đạo luật quá lớn nên Roosevelt bị buộc phải ký ban hành. Năm 1937, Quốc hội thông qua một đạo luật thậm chí còn nghiêm ngặt hơn nhưng khi chiến tranh Trung-Nhật năm 1937 bùng nổ thì công luận ủng hộ Trung Hoa do đó Roosevelt được rộng tay giúp đỡ nước này.
Tháng 10 năm 1937, Roosevelt đọc "Bài diễn văn Cách ly" với chủ đích kiềm chế các quốc gia xâm lược. Ông đề nghị rằng các quốc gia hiếu chiến nên bị đối xử như một căn bệnh y học chung và cần phải bị "cách ly". Trong khi đó ông bí mật thiết lập một chương trình chế tạo tàu ngầm có tầm hoạt động xa có thể phong tỏa Nhật Bản.
Tháng 5 năm 1938, một cuộc đảo chính bất thành nổ ra do phong trào phát xít Integralista tại Brasil thực hiện. Sau cuộc đảo chính bất thành, chính phủ Brasil cho rằng Đại sứ Đức, Tiến sĩ Karl Ritter, có nhúng tay vào cuộc đảo chính này và tuyên bố rằng ông ta là persona non grata. Sự việc Brasil tố cáo Đức hậu thuẫn cho cuộc đảo chính Integralista có một ảnh hưởng khích động đối với chính phủ Roosevelt vì nó gây hoang mang rằng tham vọng của người Đức không chỉ giới hạn trong khu vực châu Âu mà trên toàn thế giới. Roosevelt bác bỏ lời đồn đoán trong một cuộc họp báo ngày 9 tháng 9. Ông nói rằng lời đồn đoán là sai 100%, và rằng Hoa Kỳ sẽ không gia nhập một "khối ngăn chặn Hitler" nào trong bất cứ hoàn cảnh nào. Ông cũng nhấn mạnh rõ rằng trong trường hợp Đức có hành động xâm lược chống Tiệp Khắc thì Hoa Kỳ vẫn giữ lập trường trung lập.
Tháng 10 năm 1938, Roosevelt mở các buổi hội đàm bí mật với Pháp để xem có cách nào khắc phục được các luật lệ trung lập của Mỹ và cho phép Pháp mua các phi cơ Mỹ để lấp khoảng trống sản xuất trong ngành công nghiệp chế tạo phi cơ Pháp. Bản thân Roosevelt cũng bị nhiều tác động ảnh hưởng vì một bản báo cáo vào tháng 10 năm 1938 của Đại sứ Mỹ tại Pháp, William Bullitt rằng Thủ tướng Pháp Édouard Daladier có nói với ông rằng "Nếu tôi có ba hoặc bốn ngàn phi cơ thì Hội nghị München đã không bao giờ xảy ra". Tháng 11 năm 1938, Jean Monnet bí mật đến Washington cùng với một Ủy ban và ngay lập tức đặt mua 1.000 phi cơ chiến đấu Mỹ cho Không quân Pháp. Một vấn đề chính trong các cuộc hội đàm Pháp-Mỹ là làm sao người Pháp trả tiền mua phi cơ Mỹ và làm sao để người Mỹ khắc phục được các đạo luật trung lập của Mỹ Ngoài ra, Đạo luật Johnson 1934, cấm cho các quốc gia vỡ nợ tiền mượn trong thời Chiến tranh thế giới thứ nhất mượn thêm tiền, cũng là một yếu tố phức tạp hơn (Pháp đã vỡ nợ năm 1934 vì không trả nổi tiền nợ mượn trong thời Chiến tranh thế giới thứ nhất). Ngày 28 tháng 1 năm 1939, một sĩ quan Không quân Pháp bị thương trong một vụ rớt máy bay tại Los Angeles. Vụ tai nạn này có liên quan đến một nguyên mẫu máy bay đầu tiên của loại oanh tạc cơ DB-7 khiến làm lộ bí mật các cuộc hội đàm bí mật Pháp-Mỹ. Chuyện bại lộ này dấy lên một làn sóng lớn của chủ nghĩa biệt lập chống lại Roosevelt và dẫn đến việc Ủy ban Quân vụ Thượng viện Hoa Kỳ tiến hành điều tra các cuộc hội đàm Pháp-Mỹ. Vì sự chống đối của chủ nghĩa biệt lập tại Quốc hội nên Roosevelt đã thực hiện một loạt những phát biểu trái ngược đến dân chúng Mỹ vào mùa đông năm 1939. Qua những phát biểu này, ông cảnh báo rằng Pháp và Anh Quốc là "phòng tuyến đầu tiên" của Mỹ cần viện trợ Mỹ và ông còn nói thêm rằng ông chỉ đang theo đuổi chính sách ngoại giao biệt lập mà sẽ không đẩy Hoa Kỳ vào bất cứ một cuộc chiến nào. Những phát biểu trái ngược của Roosevelt càng khiến Hitler càng thêm khinh thường Roosevelt vì cho rằng ông là một lãnh tụ yếu thế, hay dao động và vì thế làm tăng thêm tính chủ quan của Hitler trong việc đánh giá Hoa Kỳ. Tháng 2 năm 1939, để trả tiền mua phi cơ chiến đấu, người Pháp đã đề nghị nhượng lại tất cả các thuộc địa của họ tại vùng biển Caribe và Thái Bình Dương với giá 10 tỉ franc, đánh đổi bằng quyền mua theo tín dụng không giới hạn các phi cơ Mỹ. Sau các cuộc thương thuyết căng thẳng, một cuộc dàn xếp được thỏa thuận vào mùa xuân năm 1939, cho phép Pháp thực hiện các đơn đặt hàng khổng lồ với ngành công nghiệp chế tạo phi cơ Mỹ; tính đến năm 1940, tuy phần lớn các phi cơ được đặt mua đã không được giao hàng tại Pháp nhưng Roosevelt đã sắp xếp đổi hướng giao hàng các phi cơ này cho người Anh vào tháng 6 năm 1940.
Vào tháng 4 năm 1940, Đức xâm chiếm Đan Mạch và Na Uy, theo sau là xâm chiếm Hà Lan, Bỉ, Luxembourg, và Pháp vào tháng 5. Các chiến thắng của Đức tại Tây Âu khiến cho Anh Quốc trở nên suy yếu, dễ bị xâm chiếm. Vì quyết không để cho Anh Quốc bại trận, Roosevelt tận dụng ngay sự chuyển đổi nhanh chóng thái độ của công chúng. Paris sụp đổ gây hoang mang cho công luận Mỹ và tiếng nói của chủ nghĩa biệt lập cũng gần như tắt tiếng. Một sự đồng thuận cho thấy rằng chi tiêu quân sự phải được nới rộng một cách ngoạn mục. Không có sự đồng thuận rằng nguy cơ lâm chiến của Hoa Kỳ là bao nhiêu khi trợ giúp Anh Quốc. Tháng 7 năm 1940, FDR bổ nhiệm hai lãnh tụ theo chủ nghĩa can thiệp thuộc Đảng Cộng hòa, Henry L. Stimson và Frank Knox, làm bộ trưởng chiến tranh và bộ trưởng hải quân theo thứ tự vừa kể. Cả hai Đảng ủng hộ các chương trình của ông nhanh chóng xây dựng các lực lượng quân sự Mỹ, nhưng những người theo chủ nghĩa biệt lập cảnh báo rằng Roosevelt sẽ đưa quốc gia lâm vào một cuộc chiến không cần thiết với Đức. Ông thành công trong việc hối thúc Quốc hội thông qua luật tuyển mộ quân dịch thời bình đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ năm 1940 (luật này được gia hạn năm 1941 bằng một phiếu ở Quốc hội). Roosevelt được "Ủy ban Phòng vệ Mỹ bằng cách Trợ giúp Đồng minh" ủng hộ nhưng bị "Ủy ban Mỹ trên hết" phản đối.
Roosevelt dùng uy tín cá nhân của mình để xây dựng sự ủng hộ cho việc can thiệp của Hoa Kỳ. Nước Mỹ phải là "Kho thuốc đạn dân chủ", đó là lời phát biểu của ông trên sóng truyền thanh đến dân chúng Mỹ trong chương trình "fireside chats". Ngày 2 tháng 9 năm 1940, Roosevelt công khai thách thức các đạo luật trung lập bằng việc ký hiệp ước trao 50 chiếc khu trục hạm cho Anh Quốc để đổi lấy quyền sử dụng các căn cứ hải quân của Anh Quốc tại các đảo thuộc Anh Quốc trong vùng biển Caribe và Newfoundland. Đây là một dấu hiệu báo trước sự ra đời của Hiệp ước Lend-Lease vào tháng 3 năm 1941, khởi sự cuộc viện trợ kinh tế và quân sự khổng lồ trực tiếp cho Anh Quốc, Trung Hoa và sau đó là Liên Xô. Để nhận ý kiến cố vấn về chính sách ngoại giao, Roosevelt nhờ đến Harry Hopkins, người sau đó trở thành cố vấn chính của ông trong thời chiến. Họ tìm những phương sách mới để giúp Anh Quốc vì các nguồn tài chính của Anh Quốc đã cạn kiệt vào cuối năm 1940. Quốc hội Hoa Kỳ, nơi mà tiếng nói của chủ nghĩa biệt lập đã tắt tiếng, thông qua Đạo luật Lend-Lease vào tháng 3 năm 1941, cho phép Hoa Kỳ cung cấp vũ khi quân trang cho Anh Quốc, Trung Hoa và sau đó là Liên Xô. Quốc hội bỏ phiếu tán thành việc chi tiêu $50 tỷ đô la quân viện từ năm 1941–45. Có sự tương phản lớn so với tiền mà Hoa Kỳ cho vay mượn trong thời Chiến tranh thế giới thứ nhất, viện trợ quân sự này không phải trả lại sau chiến tranh. Roosevelt là một người suốt đời ủng hộ sự tự do mậu dịch và chống đối chủ nghĩa đế quốc cho nên việc kết thúc chủ nghĩa thuộc địa của châu Âu là một trong những mục tiêu của ông.
Bầu cử năm 1940
Truyền thống hai nhiệm kỳ đã là một luật bất thành văn (cho đến khi có tu chính án hiến pháp 22 ra đời quy định rõ mỗi tổng thống chỉ được phục vụ hai nhiệm kỳ) từ khi tổng thống George Washington từ chối ra tranh cử nhiệm kỳ thứ ba vào năm 1796. Sau này, hầu như các vị tổng thống kế nhiệm đều theo truyền thống hai nhiệm kỳ này mà không ra tái tranh cử thêm một nhiệm kỳ thứ ba. Cả hai tổng thống Ulysses S. Grant và Theodore Roosevelt đã bị chỉ trích khi tìm cách ra ứng cử một nhiệm kỳ thứ ba không liên tục sau khi rời chức tổng thống một thời gian. FDR lần lượt chiếm ưu thế hơn các Đảng viên Dân chủ nổi bật khác đang tìm cách nhận sự đề cử của Đảng Dân chủ. Trong số các Đảng viên Dân chủ này là hai thành viên nội các của ông: một là Bộ trưởng Ngoại giao Cordell Hull và hai là James Farley, bộ trưởng bưu điện và chủ tịch Đảng Dân chủ, từng là giám đốc điều hành chiến dịch vận động tranh cử của Roosevelt trong hai lần bầu cử tổng thống năm 1932 và 1936. Roosevelt dời đại hội Đảng về Chicago nơi ông có sự hậu thuẫn mạnh mẽ từ cơ cấu chính trị thành phố (cơ cấu này kiểm soát hệ thống chính trị). Tại đại hội Đảng, phe đối lập với ông thiếu tổ chức nhưng Farley cũng tập trung được nhiều người ủng hộ. Roosevelt liền gửi một thông điệp rằng ông sẽ không ra tranh cử trừ khi ông bị Đảng bắt buộc ra tranh cử và rằng tất cả các đại biểu có quyền tự do bầu chọn cho bất cứ ai. Các đại biểu kinh ngạc; rồi bỗng dưng loa phóng thanh la to "Chúng tôi cần Roosevelt... Thế giới cần Roosevelt!" Các đại biểu như cuồng dại và ông được đề cử với tỉ lệ 946 - 147. Người mới được đề cử ra tranh cử phó tổng