✨USS Augusta (CA-31)

USS Augusta (CA-31)

USS Augusta (CL-31/CA-31) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc cuối cùng của lớp Northampton, và là chiếc tàu chiến thứ tư của Hải quân Mỹ được đặt cái tên này, nhưng là chiếc thứ ba được đặt theo tên của thành phố Augusta tại Georgia. Được đưa vào hoạt động năm 1931, nó được ghi nhận đã phục vụ tại Đại Tây Dương và Địa Trung Hải trong suốt Chiến tranh Thế giới thứ hai, cũng như được cả các Tổng thống Franklin D. Roosevelt và Harry S. Truman sử dụng trong nhiều chuyến đi trong hoàn cảnh thời chiến, mà đáng kể nhất là đã tham dự Hội nghị Newfoundland, trước khi được cho ngừng hoạt động vào năm 1946 và được tháo dỡ vào năm 1960. Augusta được tặng thường ba Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.

Thiết kế và chế tạo

thumb|left|Augusta đang được hạ thủy tại Newport News, 1 tháng 2 năm 1930. Tàu chị em đang được trang bị ở phía sau. Vốn vẫn bị hạn chế về trọng lượng choán nước và cỡ pháo bởi Hiệp ước Hải quân Washington, nhưng mang nhiều đặc tính cải tiến so với lớp Pensacola dẫn trước, lớp Northampton mang chín khẩu pháo trên ba tháp pháo ba nòng, gồm hai phía mũi và một phía đuôi. Đây là cách sắp xếp tối ưu mà sau này được tiếp nối bởi mọi lớp tàu tuần dương hạng nặng khác của Hoa Kỳ.

Augusta được đặt lườn như là chiếc CL-31 vào ngày 2 tháng 7 năm 1928 bởi hãng Newport News Shipbuilding and Dry Dock Co. tại Newport News, Virginia. Nó được hạ thủy vào ngày 1 tháng 2 năm 1930, được đỡ đầu bởi cô Evelyn McDaniel, một cư dân thành phố Augusta. Con tàu được cho nhập biên chế tại xưởng hải quân Norfolk, Portsmouth, Virginia vào ngày 30 tháng 1 năm 1931 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại tá Hải quân James O. Richardson.

Lịch sử hoạt động

Những năm giữa hai cuộc thế chiến

Hư hại xảy ra cho một trong những turbine của nó đã rút ngắn chuyến đi chạy thử máy ban đầu, nhưng Augusta tiếp tục tiến hành các hoạt động huấn luyện ban đầu trong một chuyến đi đến Colon, Panama và quay trở lại, trước khi chiếc tàu tuần dương mới được giao vai trò soái hạm cho Tư lệnh Lực lượng Tuần tiễu, Phó Đô đốc Arthur L. Willard, vào ngày 21 tháng 5 năm 1931.

Hạm đội Đại Tây Dương

Rời Xưởng hải quân Mare Island vào ngày 11 tháng 4, 1941 với lớp sơn và diện mạo mới, Augusta lên đường đi San Pedro và ở lại đây cho đến ngày 13 tháng 4. Nó băng qua kênh đào Panama bốn ngày sau đó và trình diện để phục vụ cùng Hạm đội Đại Tây Dương vào ngày 17 tháng 4. Rời vùng kênh đào vào ngày 19 tháng 4, nó đi đến Newport, Rhode Island vào ngày 23 tháng 4, nơi Đô đốc Ernest J. King, Tổng tư lệnh Hạm đội Đại Tây Dương, quay trở lại từ thủ đô Washington, D.C. và đặt cờ hiệu của mình bên trên Augusta vào ngày 2 tháng 5. Chiếc tàu tuần dương tiếp tục ở lại Newport, phục vụ như là soái hạm của Tổng tư lệnh Hạm đội Đại Tây Dương, cho dù Đô đốc King quay trở lại Washington vào lúc này. Nó khởi hành đi Bermuda vào ngày 24 tháng 5, đến nơi vảo ngày 26 tháng 5 và ở lại đây cho đến ngày 28 tháng 5, khi nó lên đường quay trở lại Newport.

Augusta tiếp tục thả neo tại vịnh Narragansett từ ngày 30 tháng 5 đến ngày 23 tháng 6, khi nó lên đường đi đến Xưởng hải quân New York để cải biến do được lựa chọn cho một nhiệm vụ đặc biệt. Tổng thống Franklin D. Roosevelt có kế hoạch gặp gỡ Thủ tướng Anh Quốc Winston Churchill để bàn luận về phối hợp hoạt động chung chống Đức Quốc Xã; cuộc gặp gỡ được dự định diễn ra ngoài khơi Newfoundland. Chiếc tàu tuần dương được chọn như là soái hạm của Tổng thống, nên cần có những cải biến và nâng cấp cho phù hợp.

Xưởng tàu muốn giữ Augusta lại lâu hơn cho những công việc sửa chữa và đại tu cần thiết khác; tuy nhiên Đô đốc King đã chỉ thị cho Văn phòng Tàu chiến chỉ thực hiện những cải tiến thực sự "cần thiết" để sẵn sàng cho việc phục vụ cho Tổng thống trong thời hạn nhanh nhất. Vì thế con tàu đã chỉ ở trong xưởng tàu từ ngày 23 tháng 6 đến ngày 2 tháng 7, rồi hoạt động dọc bờ Đông ngoài khơi Hilton Head và Charleston, South Carolina trong các ngày 4 và 5 tháng 7, rồi ngoài khơi Hampton Roads trong các ngày 6 và 7 tháng 7 trước khi quay trở lại Newport vào ngày 8 tháng 7. Nó ở lại đây cho đến tháng 8.

Khi Thủ tướng Churchill bắt đầu hành trình vượt Đại Tây Dương bên trên thiết giáp hạm , Tổng thống Roosevelt cũng bắt đầu chuyến đi khi rời Washington, D.C. lúc 11 giờ 00 ngày 3 tháng 8 để đi đến Căn cứ Tàu ngầm tại New London, Connecticut, nơi ông cùng đoàn tùy tùng lên chiếc du thuyền , rồi được chiếc hộ tống lên đường đi vịnh Appogansett. Đến 22 giờ 23 phút ngày 4 tháng 8, Potomac thả neo tại khu vực quần đảo Elizabeth, Massachusetts, bên cạnh Augusta; tàu tuần dương hạng nặng cùng năm tàu khu trục hộ tống cũng thả neo tại khu vực lân cận.

Potomac cặp bên mạn Augusta lúc 05 giờ 30 phút ngày 5 tháng 8 và thả neo để Tổng thống và đoàn tùy tùng chuyển sang chiếc tàu tuần dương hạng nặng lúc 06 giờ 17 phút. Vì lý do an ninh, lá cờ của Tổng thống Potomac vẫn được treo bên trên khi nó, có Calypso tháp tùng, vượt kênh đào Cape Cod đi đến vùng biển New England. Một đặc vụ với hình dạng giống Tổng thống và giả dạng theo tính cách của ông ở lại trên Potomac, và những thông cáo báo chí hàng ngày vẫn tiếp tục phát ra từ con tàu nhằm tạo ấn tượng rằng Roosevelt đang trong một kỳ nghỉ trên du thuyền của mình.

Trong khi đó Augusta, được Tuscaloosa và các tàu khu trục hộ tống khởi hành lúc 06 giờ 40 phút, đi qua eo biển Vineyard Sound và di chuyển ở vận tốc ; đoàn tàu đi ngang tàu hải đăng Nantucket Shoals lúc 11 giờ 25 phút. Ngoại trừ một lúc ngắn khoảng hai giờ vào sáng sớm ngày hôm sau, 6 tháng 8, khi đoàn tàu gặp phải sương mù dày đặc và buộc phải giảm tốc độ xuống còn , họ duy trì một nhịp độ trung bình suốt thời gian còn lại của hành trình đi đến Căn cứ Hải quân Argentia ở Newfoundland, Canada. Đoàn tàu đi đến vịnh Placentia vào sáng ngày 7 tháng 8, buông neo trong khi chờ đợi tàu của Churchill đến.

Sáng hôm đó, Tổng thống thưởng thức trò giải trí mà ông ưa thích nhất: câu cá, từ sàn trước của Augusta. Ông câu được một con cá với hình dạng lạ thường không thể gọi tên, và ông ra lệnh bảo quản con cá để gửi đến Viện Smithsonian khi quay trở về Washington D.C. Ông cùng với đoàn tủy tùng rời tàu lúc 13 giờ 35 phút trên một xuồng săn cá voi, để câu cá tại vùng biển chung quanh; thành phần đoàn tùy tùng bao gồm con trai Tổng thống, Thiếu úy Hải quân Franklin D. Roosevelt, Jr., sĩ quan thuộc tàu khu trục được biệt phái tạm thời làm tùy tùng cho cha mình. Với kết quả câu cá kém hơn mong đợi, vị Tổng tư lệnh tiếp tục khám phá vùng biển và việc xây dựng tại Căn cứ Argentia. thumb|Roosevelt và Churchill trên tàu tuần dương Augusta Trên thiết giáp hạm Prince of Wales, Thủ tướng Churchill đi đến Căn cứ Argentia vào sáng ngày 9 tháng 8; Thủ tướng Churchill gặp Tổng thống Roosevelt bên trên Augusta lúc 11 giờ 00, và ăn trưa với nhau trong cabin riêng; cùng lúc đó Đô đốc King chiêu đãi những thành viên của phái đoàn Anh trong cabin của ông. Chiếc tàu tuần dương cũng tiếp đón Harry Hopkins, đặc phái viên riêng của Tổng thống tại Anh vốn cũng đã tháp tùng trong chuyến đi vượt Đại Tây Dương. Thủ tướng Churchill còn tiếp tục ăn tối và thảo luận với Tổng thống Roosevelt trước khi rời tàu lúc 23 giờ 45 phút.

Sáng ngày hôm sau, tàu khu trục cặp bên mạn Augusta để đưa Tổng thống và đoàn tùy tùng sang viếng thăm phái đoàn Anh bên trên Prince of Wales. Họ dự thánh lễ, tham quan chiếc thiết giáp hạm và ăn trưa với nhau trước khi rời tàu. Tổng thống lại tiếp đón phát đoàn của Thủ tướng Anh trên Augusta vào chiều tối hôm đó. Trong các ngày 11 và 12 tháng 8, Thủ tướng Churchill và đoàn tùy tùng tiếp tục đi sang chiếc tàu tuần dương để hội đàm với phái đoàn Hoa Kỳ; nội dung của các cuộc hội đàm đã đưa đến bản Hiến chương Đại Tây Dương nổi tiếng, trong ngày hội đàm sau cùng, những bản sơ thảo của tám điểm trong hiến chương cuối cùng cũng hoàn tất. Đến 14 giờ 50 phút ngày 12 tháng 8, Tổng thống Roosevelt và phái đoàn Hoa Kỳ tập trung trên boong sau của Augusta để tiễn Thủ tướng Churchill cùng đoàn tùy tùng rởi tàu, có hàng chào danh dự của thủy thủ con tàu và ban nhạc cử bài God Save the King. Hơn hai giờ sau đó, Prince of Wales đi ngang qua gần bên tàu trong khi thủy thủ đứng hàng chào danh dự bên mạn và ban nhạc tiếp tục cử bài Auld Lang Syne để tạm biệt. Sau đó Augusta cũng lên đường, có Tuscaloosa và các tàu khu trục hộ tống, để quay trở lại vịnh Blue Hill, Maine, nơi sẽ hẹn gặp PotomacCalypso.

Thời tiết sương mù dày đặc buộc các con tàu phải giảm tốc độ trong khi phái đoàn nghỉ ngơi sau các cuộc hội đàm. Sáng hôm sau 14 tháng 8, ngoài khơi mũi Sable, Nova Scotia, Tổng thống Roosevelt lên boong tàu để theo dõi hoạt động của chiếc tàu hộ tống máy bay (sau này đổi lại thành tàu sân bay hộ tống), một kiểu tàu mà vị Tổng tư lệnh đã thúc đẩy việc thiết kế và chế tạo. Long Island đã cho biểu diễn phóng lên ba chiếc Brewster F2A-2 Buffalo bằng máy phóng máy bay, và sáu chiếc Curtiss SOC Seagull cất cánh theo cách thông thông thường. Trưa hôm đó, Đô đốc King mở tiệc trưa tạm biệt Tổng thống và phái đoàn.

Augusta thả neo tại vịnh Blue Hill lúc 12 giờ 28 phút ngày 14 tháng 8. Potomac cặp bên mạn để đón phái đoàn và chuyển hành lý cùng các thiết bị khác; chiếc du thuyền tách ra lúc 14 giờ 18 để đi Rockland, Maine.

Quay trở lại vịnh Narragansett vào ngày 15 tháng 8, Augusta ở lại đây trong mười ngày trước khi đi đến Xưởng hải quân New York để bảo trì. Con tàu quay trở lại Newport vào ngày 29 tháng 8. Đô đốc King tiếp tục giữ chiếc tàu tuần dương hạng nặng như soái hạm của mình trong suốt mùa Thu, khi nó hoạt động tại khu vực giữa Newport và Bermuda. Trong giai đoạn này con tàu từng đón tiếp Bộ trưởng Hải quân Frank Knox.

Thế Chiến II

Giai đoạn mở màn

Khi Hải quân Đế quốc Nhật Bản tấn công Trân Châu Cảng vào ngày 7 tháng 12, 1941, Augusta đang thả neo tại Newport. Nó hoạt động từ cảng này cho đến ngày 11 tháng 12, rồi ở lại cảng cho đến ngày tháng 1, 1942. Trong giai đoạn này Chuẩn đô đốc Royal E. Ingersoll tiếp nhận từ Đô đốc King chức vụ Tư lệnh Hạm đội Đại Tây Dương vào ngày 5 tháng 1. Chiếc tàu tuần dương rời Newport vào ngày 12 tháng 1 để đi Casco Bay, Maine ngang qua Cape Cod Canal để thực hành huấn luyện, rồi quay trở về cảng. Nó lại lên đường đi Bermuda vào ngày 19 tháng 1, nơi nó gia nhập Đội đặc nhiệm 2.7, và cùng đơn vị này đi đến Martinique, nơi họ tiến hành một cuộc biểu dương lực lượng từ ngày 22 tháng 2 đến ngày 4 tháng 3; hòn đảo thuộc địa của Pháp này vẫn còn nằm dưới sự kiểm soát của phe Vichy thân Đức quốc xã. Con tàu quay trở lại vịnh Shelley, Bermuda vào ngày 5 tháng 3.

Trong thành phần Đội đặc nhiệm 22.7, vốn còn bao gồm tàu sân bay , tàu tuần dương hạng nhẹ và các tàu khu trục , và , Augusta lên đường vào ngày 13 tháng 3 để tuần tra tại vùng biển Caribe; các tàu khu trục và gia nhập hải đội trễ hơn vào ngày 15 tháng 3. Một ngày sau đó nó cùng HambletonEmmons tách ra để quay trở về New York. Trên đường đi vào ngày 18 tháng 3, trong hoàn cảnh đang chịu đựng một cơn bão, Augusta phái Hambleton đi điều tra một ánh chớp lửa xuất biên mạn phải tàu. Chiếc tàu khu trục đã cứu được sáu người sống sót từ con tàu hơi nước Honduras Ciepa, rồi gia nhập trở lại cùng EmmonsAugusta khi trời tối.

Sau khi về đến New York vào ngày 19 tháng 3, Augusta được sửa chữa và cải biến cho đến ngày 7 tháng 4; con tàu lên đường đi Newport có tàu khu trục tháp tùng để hộ tống. Sáng hôm sau Wilkes gặp tai nạn va chạm với chiếc tàu hơi nước Davilla, nên bị buộc phải độc lập đi đến Boston chỉ với một động cơ. Chiếc tàu tuần dương một mình hướng đến Casco Bay, đến nơi vào ngày 8 tháng 4. Đến ngày 14 tháng 4, cùng các tàu khu trục và , nó thực hành tác xạ vào mục tiêu mô phỏng như máy bay ném bom-ngư lôi trước khi quay trở lại Casco Bay.

Được tàu khu trục hộ tống hai ngày sau đó, Augusta băng qua Cape Cod Canal để đi đến Newport. Nó gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 36 tại đây, do Ranger đảm trách vai trò soái hạm, và lên đường đi Trinidad vào ngày 22 tháng 4. Trên đường đi đã xảy ra vụ va chạm nhẹ giữa Hambleton và , và nhiều lần bị báo động nhầm tàu ngầm đối phương. Tàu chở dầu gia nhập lực lượng vào ngày 28 tháng 4, và đã tiếp nhiên liệu cho hầu hết các tàu của lực lượng, trong khi thủy phi cơ của _Augusta_tuần tra bên trên đề phòng bất trắc trong khi tiếp liệu. Đến ngày 10 tháng 5, Ranger cho phóng lên 68 máy bay tiêm kích Curtiss P-40 của Lục quân; những máy bay này đã hạ cánh xuống Accra, Bờ Biển Vàng an toàn.

Lực lượng Đặc nhiệm về đến Trinidad vào ngày 21 tháng 5, và Augusta được tiếp nhiên liệu trước khi tiếp tục cùng lực lượng lên đường vào ngày hôm sau để đi đến Newport. Nó cùng Corry được cho tách ra vào ngày 26 tháng 5 để hướng đến Hampton Roads, nơi chúng thả neo vào ngày 28 tháng 5. Hai ngày sau đó, Chuẩn đô đốc Alexander Sharp chuyển cờ hiệu của mình lên chiếc tàu tuần dương, đảm nhiệm Tư lệnh Lực lượng Đặc nhiệm 22. Được Corry và tháp tùng để hộ tống, nó lên đường vào ngày 31 tháng 5 để đi Newport, đến nơi vào ngày 1 tháng 6. Con tàu lại cùng Corry ra khơi vào ngày hôm sau để hiệu chuẩn thiết bị định vị vô tuyến, rồi gia nhập cùng Ranger để cùng đến Argentia, Newfoundland, đến nơi vào ngày 5 tháng 6. Chiếc tàu tuần dương hợp cùng EllysonCorry hoạt động tuần tra chống tàu ngầm ngoài khơi Argentia từ ngày 17 tháng 6 đến ngày 18 tháng 6; nó gia nhập cùng Lực lượng Đặc nhiệm 22 để đi Newport, đến nơi vào ngày 22 tháng 6.

Đi đến New York vào ngày 24 tháng 6 để được sửa chữa, Augusta hoàn tất công việc của xưởng tàu vào ngày 29 tháng 6 và lên đường đi Newport vào ngày hôm sau. Nó cùng Lực lượng Đặc nhiệm 22 lên đường vào ngày 1 tháng 7 để đi sang vịnh Paria, Trinidad, đến nơi vào ngày 6 tháng 7. Lực lượng khởi hành hai ngày sau đó, khi Ranger thực hiện chuyến vận chuyển máy bay Lục quân thứ hai sang khu vực Tây Phi, cho phóng lên 72 máy bay của Không lực khi tiếp cận bờ biển Tây Phi. Lực lượng Đặc nhiệm 22 quay trở về Trinidad vào ngày 30 tháng 7.

Augusta đi đến Norfolk vào ngày 5 tháng 8 để được bảo trì, và rời căn cứ này vào ngày 18 tháng 8 để tập trận tầm ngắn và thực hành trinh sát ban đêm trong vịnh Chesapeake. Nó lại cùng Ranger, Corry, và lên đường đi Newport vào ngày 23 tháng 8, đến nơi hai ngày sau đó, rồi chiếc tàu tuần dương hạng nặng cùng Corry quay trở lại Norfolk vào ngày 31 tháng 8. Đội đặc nhiệm lại tiến hành huấn luyện tác xạ, bắn phá bờ biển và thực tập phòng không ngoài khơi Virginia Capes từ ngày 7 đến ngày 11 tháng 9, rồi tiếp tục huấn luyện trong vịnh Chesapeake từ ngày 28 tháng 9 đến ngày 1 tháng 10.

Chuẩn đô đốc Henry Kent Hewitt chuyển cờ hiệu của mình lên Augusta vào ngày 23 tháng 10, và con tàu trở thành soái hạm của Lực lượng Đặc nhiệm 34; Thiếu tướng George S. Patton và Chuẩn đô đốc John L. Hall, Jr. cũng lên tàu trong ngày hôm đó để chuẩn bị cho hành trình đi sang Bắc Phi. Augusta cùng Lực lượng Đặc nhiệm 34 lên đường vào ngày 24 tháng 10 để hướng sang Maroc thuộc Pháp nhằm tham gia vào Chiến dịch Torch.

Chiến dịch Torch

Đạt được yếu tố bất ngờ, Lực lượng Đặc nhiệm 34 đi đến ngoài khơi Casablanca lúc 00 giờ 00 ngày 8 tháng 11, và bắt đầu tiến hành đổ bộ lực lượng dưới quyền tướng Patton, lúc này đang chỉ đạo chiến dịch từ Augusta. Hoạt động đổ bộ bắt đầu lúc 06 giờ 17 phút, sự kháng cự của lực lượng Vichy Pháp trên bờ rất đáng kể. Đi đến ngoài khơi Fedhala, Maroc vào chiều tối ngày hôm trước 7 tháng 11, Augusta chuyển sang trạng thái báo động tác chiến từ 22 giờ 00, và sang sáng sớm ngày hôm sau khi bắt đầu tiến hành đổ bộ đã phải chịu đựng sự chống trả quyết liệt của đối phương. Nó cho phóng hai thủy phi cơ trinh sát Curtiss SOC lúc 06 giờ 30 phút, bắt đầu khai hỏa các khẩu pháo nhắm vào những khẩu pháo bờ biển đối phương lúc 07 giờ 10 phút. Tàu tuần dương hạng nhẹ ở lân cận cũng hỗ trợ vào màn hỏa lực của Augusta, và phải cơ động né tránh hỏa lực bắn trả của đối thủ. Cuộc đấu pháo tạm lắng lúc 07 giờ 30 phút cho phép Augusta phóng hai thủy phi cơ trinh sát Curtiss SOC còn lại, nhưng đối phương lại khai hỏa chỉ mười phút sau đó; đạn pháo rơi chung quanh _Augusta_chỉ cách con tàu .

Không lâu sau đó Augusta mở hết tốc độ để đi đến đánh chặn một lực lượng hải quân phe Vichy Pháp, bao gồm hai tàu tuần dương và bốn tàu khu trục ở vị trí về phía Bắc Casablanca. Tiếp cận đối thủ lúc 09 giờ 15 phút, Augusta nả pháo 8 inch nhắm vào một tàu tàu tuần dương đối phương nhằm ngăn chặn lối thoát, buộc chúng phải rút lui trở lại cảng Casablanca lúc 09 giờ 50 phút. Sau đó nó quay trở lại trợ giúp cho Brooklyn đối phó các khẩu đội pháo bờ biển đối phương. Khi các tàu chiến Pháp lại cố xoay sở thoát ra khỏi cảng Casablanca, các tàu khu trục BrestoisBoulonnais đã tìm cách tấn công bằng ngư lôi nhắm vào AugustaBrooklyn. Pháo chính của Augusta đã bắn trúng và đánh chìm Boulonnais, còn Brestois bị hư hại phải rút lui; nó cũng đắm vào cuối ngày hôm đó. Các tàu chiến Pháp thuộc phe Vichy thoát ra khỏi cảng Casablanca bị đẩy lui trở lại cảng lúc 11 giờ 22 phút và ngừng bắn trong một lúc. Đến khoảng trưa Augusta nổ súng nhắm vào tàu tuần dương Primauguet đang tìm các thoát ra, bắn trúng một phát đạn pháo 8 inch vào tháp pháo số 3 của đối thủ. Một lần nữa các tàu chiến Vichy tìm cách thoát ra khỏi cảng lúc 13 giờ 05 phút, nhưng tiếp tục bị ngăn chặn và rút lui lúc 13 giờ 50 phút.

Trong ba ngày tiếp theo, Augusta bảo vệ cho các tàu vận chuyển và lực lượng đổ bộ đồng thời đối đầu với lực lượng hải quân và pháo bờ biển đối phương. Vào ngày 9 tháng 11, chiếc tàu tuần dương hạng nặng tuần tra về phía Nam va Tây Nam khu vực vận chuyển ngoài khơi Casablanca, và tiếp tục nhiệm vụ tuần tra này sang ngày 10 tháng 11. Lúc 11 giờ 35 phút ngày 10 tháng 11, nó đẩy lui các tàu chiến Pháp tìm cách rời cảng Casablanca để ngăn chặn việc đổ bộ; thủy phi cơ trinh sát của nó đóng vai trò chính trong việc hiệu chỉnh đạn pháo xuống các mục tiêu tàu chiến và vị trí pháo đối phương. Bản thân con tàu phải chịu đựng hải pháo vây quanh từ thiết giáp hạm Jean Bart, vốn trước đó được cho là bị loại khỏi vòng chiến sau cuộc đấu pháo tay đôi với thiết giáp hạm . May mắn là Augusta đã không bị bắn trúng còn Jean Bart sau đó bị hải pháo từ tàu chiến và không kích từ máy bay của Ranger đánh chìm ở vùng nước nông.

Chiến dịch Torch kết thúc sau khi một thỏa thuận ngừng bắn đạt được giữa phía Đồng Minh với lực lượng Pháp vào ngày 11 tháng 11, và phía Đồng Minh chiếm được Maroc. Augusta lên đường vào ngày 20 tháng 11 để cùng Lực lượng Đặc nhiệm 34 quay trở về Hoa Kỳ, ghé qua Bermuda vào ngày 26 tháng 11 trước khi về đến Norfolk bốn ngày sau đó. Chuẩn đô đốc Hewitt rời tàu tại đây và Lực lượng Đặc nhiệm 34 được giải thể. Chiếc tàu tuần dương hạng nặng rời Norfolk vào ngày 9 tháng 12 cho một đợt đại tu tại New York, nơi dàn hỏa lực phòng không được tăng cường đáng kể; và sau khi hoàn tất công việc, nó đi đến Newport vào ngày 15 tháng 2, 1943.

Hộ tống vận tải tại Đại Tây Dương

Phần thưởng

Augusta được tặng thưởng ba Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**USS _Augusta_ (CL-31/CA-31)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc cuối cùng của lớp _Northampton_, và là chiếc tàu chiến thứ tư của Hải quân Mỹ được đặt
**USS Luzon** (PG-47) được đặt bởi Công ty Dock và Kỹ thuật Kiangnan, Thượng Hải, Trung Quốc vào ngày 20 tháng 11 năm 1926; ra mắt ngày 12 tháng 9 năm 1927; được tài trợ
430x430px|thumb ## Sự kiện ### Tháng 1 *5 tháng 1 – Liên Xô công nhận chính quyền thân Liên Xô mới của Ba Lan. *7 tháng 1 – Tướng Bernard Montgomery (của Anh) tổ chức một buổi
Ngày **7 tháng 8** là ngày thứ 219 (220 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 146 ngày trong năm. ## Sự kiện *933 – Mân Đế Vương Diên Quân phục vị sau một thời
**USS _Wadsworth_ (DD-516)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
**USS _Stanly_ (DD-478)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS _Thatcher_ (DD-514)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
**USS _Waters_ (DD-115/ADP-8)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Wickes_ của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, sau được cải biến thành tàu vận chuyển cao tốc
**USS _Waller_ (DD-466/DDE-466)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS _Walker_ (DD-517)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
**USS _Wright_ (CVL-49/AVT-7/CC-2)** là một tàu sân bay hạng nhẹ của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp tàu sân bay _Saipan_ vốn còn bao gồm chiếc . Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của
**USS _Wasp_ (CV/CVA/CVS-18)** là một trong số 24 tàu sân bay thuộc lớp _Essex_ được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ trong Thế Chiến II, và là chiếc tàu chiến thứ chín của Hải
**USS _Talbot_ (DD-114/APD-7)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Wickes_ của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, sau được cải biến thành tàu vận chuyển cao tốc
**USS _Sigourney_ (DD-643)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
**USS _Charles Ausburne_ (DD-570)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân
**USS _Princeton_ (CVL-23)** là một tàu sân bay hạng nhẹ của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _Independence_ được đưa ra hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến
**USS _Trever_ (DD-339/DMS-16/AG-110)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân
**USS _Nevada_ (BB-36)** (tên lóng: "Cheer Up Ship"), chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt theo tên của tiểu bang thứ 36 của Hoa Kỳ, là chiếc dẫn đầu trong
**USS _Alden_ (DD-211)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và đã tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Thế
**USS _Converse_ (DD-509)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
**USS _Pringle_ (DD-477)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS _Foote_ (DD-511)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS _Wilkes_ (DD-441)**, là một tàu khu trục lớp _Gleaves_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã tham gia suốt Thế Chiến II, sống sót qua
**USS _Willard Keith_ (DD-775)** là một tàu khu trục lớp _Allen M. Sumner_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của
**USS _Volador_ (SS-490)** là một được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được
**USS _Wickes_ (DD-578)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
**USS _Witter_ (DE-636)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Buckley_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên nó được đặt theo Thiếu úy Hải quân
**USS _Gamble_ (DD–123/DM-15)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Wickes_ của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, sau cải biến thành một tàu rải mìn hạng nhẹ
**USS _Philip_ (DD/DDE-498)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
**USS _Anthony_ (DD-515)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
**USS _Lansdowne_ (DD-486)** là một tàu khu trục lớp _Gleaves_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã tham gia suốt Thế Chiến II, sống sót qua
Thống tướng **Dwight David "Ike" Eisenhower** (phát âm: ; 14 tháng 10 năm 1890 – 28 tháng 3 năm 1969) là một vị Thống tướng Lục quân Hoa Kỳ và là Tổng thống Hoa Kỳ
**Lớp thiết giáp hạm _South Dakota**_ là một nhóm bốn thiết giáp hạm nhanh được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Chúng là lớp thiết giáp
thumb|right|Nam Đại Dương theo mô tả trong dự thảo ấn bản thứ tư tài liệu _Giới hạn của biển và đại dương_ của [[Tổ chức Thủy văn Quốc tế (2002)]] thumb|right|[[Đới hội tụ Nam Cực