✨USS Franklin D. Roosevelt (CV-42)

USS Franklin D. Roosevelt (CV-42)

USS Franklin D. Roosevelt (CVB/CVA/CV-42) là một tàu sân bay của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc thứ hai trong lớp Midway, được đưa ra hoạt động sau khi Chiến tranh Thế giới thứ hai đã kết thúc. Tên con tàu được đặt theo Franklin D. Roosevelt, Tổng thống thứ 32 của Hoa Kỳ. Nó được cho nhập biên chế vào Ngày Hải quân 27 tháng 10 năm 1945 dưới quyền chỉ huy của hạm trưởng, Đại tá Hải quân Apollo Soucek.

Lịch sử hoạt động

Các hoạt động ban đầu

Trong chuyến đi chạy thử máy, Roosevelt ghé thăm Rio de Janeiro từ ngày 1 đến ngày 11 tháng 2 năm 1946 để đại diện cho Hoa Kỳ trong buổi lễ nhậm chức của Tổng thống Brasil Eurico Gaspar Dutra, người sau đó đã lên tàu cho một chuyến đi ngắn. Trong tháng 4 và tháng 5, Roosevelt tham gia các cuộc cơ động của Đệ Bát hạm đội ngoài khơi Bờ Đông Hoa Kỳ, cuộc tập trận huấn luyện lớn đầu tiên của Hải quân sau chiến tranh. Việc thử nghiệm máy bay phản lực được tiếp tục trong tháng 11, khi Trung tá Thủy quân Lục chiến Marion E. Carl thực hiện hai lượt cất cánh bằng máy phóng, bốn lần cất cánh không cần trợ giúp và năm lần hạ cánh với dây hãm trên một chiếc Lockheed P-80A Shooting Star.

Hiện đại hóa đơn giản

nhỏ|phải|Roosevelt sau khi được hiện đại hóa nhỏ|phải|Roosevelt vào năm [[1971]] Thoạt tiên Roosevelt có kế hoạch được hiện đại hóa rộng rãi theo chương trình SCB 101.68 tương tự như với chiếc Midway chị em đã thực hiện từ năm 1966 đến năm 1970. Kế hoạch này bị hủy bỏ cho chi phí quá tốn kém trong việc tái cấu trúc Midway, mà cuối cùng lên đến 202 triệu Đô-la Mỹ. Vì vậy Roosevelt chỉ được tái trang bị đơn giản với chi phí 46 triệu Đô-la, cho phép nó hoạt động cùng các kiểu máy bay Grumman A-6 Intruder và A-7 Corsair II.

Vào tháng 7 năm 1968, Roosevelt đi vào Xưởng hải quân Norfolk cho chương trình hiện đại hóa kéo dài 11 tháng. Thang nâng ở trục giữa phía trước được tái bố trí sang mép mạn phải trước đảo kiến trúc thượng tầng, máy phóng giữa bên mạn trái được tháo dỡ, chỗ nghỉ dành cho thủy thủ được tân trang, và hai trong số bốn tháp súng phòng không được tháo dỡ. Roosevelt còn được trang bị Light Water, một hệ thống vòi phun cứu hỏa sàn tàu sử dụng hóa chất mới tương thích với nước biển. Nó lại ra khơi vào ngày 26 tháng 5 năm 1969. Đến tháng 1 năm 1970, nó đi đến Địa Trung Hải cho một lượt bố trí khác cùng Đệ Lục hạm đội.

Lượt phục vụ thứ 26 của Roosevelt cùng Đệ Lục hạm đội được đánh dấu bởi việc tham gia một cách gián tiếp vào cuộc chiến tranh Yom Kippur diễn ra vào tháng 10 năm 1973, khi nó phục vụ như một "sân bay trung chuyển" cho số máy bay được gửi cho Israel. Nhóm chiến đấu của chiếc tàu sân bay, Đội đặc nhiệm 60.2, cũng sẵn sàng cho tình huống cần phải di tản bất ngờ.

Từ năm 1973 đến năm 1975, Liên đội VAW-121 hoạt động trên Roosevelt như một trong những phi đội Grumman E-1 Tracer cuối cùng của hạm đội. Roosevelt được xếp lại lớp như một tàu sân bay đa dụng với ký hiệu lườn mới CV-42 vào ngày 30 tháng 6 năm 1975, nhưng nó chưa bao giờ hoạt động cùng với máy bay chống tàu ngầm. Từ tháng 6 năm 1976 đến tháng 4 năm 1977, Roosevelt nhận lên tàu Liên đội VMA-231 với 14 chiếc máy bay phản lực AV-8A Harrier. Sự bố trí này chứng minh máy bay VTOL (cất và hạ cánh thẳng đứng) có thể tích hợp thành công vào các không đoàn máy bay cánh cố định.

Ngày 12 tháng 1 năm 1977, Roosevelt va chạm với chiếc tàu hàng chở ngũ cốc Liberia Oceanus trong khi đi qua eo biển Messina. Cả hai chiếc đều có khả năng đi đến cảng bằng động lực của chính mình.

Ngừng hoạt động và tháo dỡ

nhỏ|phải|Roosevelt vào cuối những năm [[thập niên 1970|1970]] Vào cuối những năm 1970, Roosevelt ở vào tình trạng vật chất kém cỏi. Không có được những nâng cấp và hiện đại hóa mà những chiếc MidwayCoral Sea cùng lớp được thực hiện, Roosevelt là chiếc ít hiện đại nhất và kém khả năng nhất trong lớp. Hơn nữa, nó sử dụng turbine General Electric, nên gặp phải những vấn đề cố hữu và tốc độ bị giảm so với những chiếc khác sử dụng turbine Westinghouse. Do đó Hải quân chọn cho Roosevelt ngừng hoạt động khi chiếc thứ hai của lớp tàu sân bay Nimitz, Dwight D. Eisenhower, đi vào hoạt động vào năm 1977. Roosevelt hoàn tất chuyế đi cuối cùng vào tháng 4 năm 1977. Nó được xuất biên chế vào ngày 30 tháng 9 năm 1977 và được rút khỏi Đăng bạ Hải quân một ngày sau đó. Những cố gắng nhằm bảo tồn Roosevelt như một tàu bảo tàng tại thành phố New York đã thất bại.

Tình trạng chung rất tệ hại của Roosevelt khiến nó không phù hợp để được giữ lại trong Hạm đội Dự bị Hải quân Hoa Kỳ. Hơn nữa, chiều cao hầm chứa máy bay chỉ có làm giới hạn số kiểu máy bay mà nó có thể mang được; những tàu sân bay lớp Essex còn lại có thể sử dụng cùng các loại máy bay đó với chi phí thấp hơn. Một số đô đốc hải quân còn lo ngại rằng nếu Roosevelt được giữ lại, Nội các chính phủ Jimmy Carter sẽ dùng khả năng tái kích hoạt nó như là lý do để hủy bỏ kế hoạch đóng các tàu sân bay lớp Nimitz trong tương lai.

Ngày 1 tháng 4 năm 1978, Roosevelt được bán cho công ty River Terminal Development với giá 2,1 triệu Đô-la. Sau khi tháo dỡ các thiết bị còn sử dụng được tại Xưởng hải quân Norfolk, con tàu được kéo đến Kearny, New Jersey. Nó đến nơi vào ngày 3 tháng 5 năm 1978 và công việc tháo dỡ được bắt đầu từ năm 1980.

Phần thưởng

Roosevelt được tặng thưởng một Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Chiến tranh Việt Nam.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**USS _Franklin D. Roosevelt_ (CVB/CVA/CV-42)** là một tàu sân bay của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc thứ hai trong lớp _Midway_, được đưa ra hoạt động sau khi Chiến tranh Thế giới thứ hai
**USS _Midway_ (CVB/CVA/CV-41)** là một tàu sân bay của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó, và là chiếc tàu sân bay đầu tiên được đưa ra hoạt động sau
**Lớp tàu sân bay _Midway**_ của Hải quân Hoa Kỳ là một trong những thiết kế tàu sân bay có thời gian phục vụ lâu nhất trong lịch sử. Được đưa ra hoạt động lần