✨I-48 (tàu ngầm Nhật)

I-48 (tàu ngầm Nhật)

I-48 là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C2 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944, nó hoạt động như tàu ngầm mang ngư lôi tự sát Kaiten cho đến khi bị các tàu hộ tống khu trục Hoa Kỳ , và đánh chìm gần Yap vào ngày 23 tháng 1, 1945.

Thiết kế và chế tạo

Thiết kế

Tàu ngầm Type C được thiết kế dựa trên phân lớp KD6 của lớp Kaidai dẫn trước, nhưng trang bị vũ khí ngư lôi mạnh hơn để tấn công tầm xa. Chúng có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn, lườn tàu có chiều dài , mạn tàu rộng và mớn nước sâu . Con tàu có thể lặn sâu đến .

Tàu ngầm Type C được trang bị hai động cơ diesel công suất , mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn, mỗi trục được vận hành bởi một động cơ điện công suất . Khi di chuyển trên mặt nước nó đạt tốc độ tối đa và khi lặn dưới nước, tầm xa hoạt động của Type C là ở tốc độ , và có thể lặn xa ở tốc độ .

Các con tàu có tám ống phóng ngư lôi , tất cả được bố trí trước mũi, và mang theo tổng cộng 20 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu bao gồm khẩu hải pháo , cùng hai pháo phòng không 25 mm Type 96 nòng đơn hoặc nòng đôi. Các bộ gá trên boong tàu phía sau tháp chỉ huy cho phép nó vận chuyển và phóng một tàu ngầm bỏ túi Type A (Kō-hyōteki).

Chế tạo

Được đặt hàng trong Chương trình Maru Kyū năm 1941, I-48 được đặt lườn như là chiếc Tàu ngầm số 378 tại Xưởng vũ khí Hải quân Sasebo ở Sasebo vào ngày 19 tháng 6, 1943. Nó được đổi tên thành I-48 vào ngày 19 tháng 6, 1943 trước khi được hạ thủy vào ngày 12 tháng 12, 1943. Con tàu hoàn tất và nhập biên chế vào ngày 5 tháng 9, 1944, dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá Hải quân Toyama Zenshin.

Lịch sử hoạt động

Sau khi nhập biên chế, I-48 được phối thuộc cùng Quân khu Hải quân Yokosuka, và được phân về Hải đội Tàu ngầm 11 trực thuộc Đệ Lục hạm đội. Con tàu được cấu hình để có thể mang bốn ngư lôi tự sát Kaiten trên sàn tàu phía sau tháp chỉ huy; trong đó hai vị trí được trang bị cửa ống để hoa tiêu có thể chuyển sang chiếc ngư lôi trong trong khi tàu ngầm đang lặn dưới nước. Vào ngày 7 tháng 12, 1944, I-48 được điều sang Đội tàu ngầm 15 trực thuộc Đệ Lục hạm đội, và sang ngày hôm sau 8 tháng 12 được điều gia nhập Đội Kaiten Kongo cùng với các tàu ngầm I-36, I-47, I-53, I-56I-58.

Nhiệm vụ Kaiten thứ nhất

I-48 hoàn tất hoạt động chạy thử máy và huấn luyện trong biển nội địa Seto vào ngày 26 tháng 12, và lên đường đi sang Căn cứ Kaiten Otsujima tại Yamaguchi. Tại đây nó đón lên tàu các ngư lôi Kaiten cùng hoa tiêu tương ứng trước khi lên đường vào ngày 9 tháng 1, 1945, trở thành tàu ngầm cuối cùng trong Đội Kaiten Kongo xuất phát, để đi sang nơi neo đậu của hạm đội Hoa Kỳ tại vũng biển Ulithi thuộc quần đảo Caroline. Theo kế hoạch, I-48 sẽ tung ra đợt tấn công bằng ngư lôi Kaiten nhắm vào tàu bè trong vũng biển Ulithi vào ngày 21 tháng 1. Tuy nhiên I-48 hoàn toàn mất liên lạc sau đó.

Bị mất

Vào ngày 21 tháng 1, 1945, ở vị trí về phía Tây Ulithi, I-48 đang di chuyển trên mặt nước với tốc độ hướng về phía đảo san hô khi nó bị một thủy phi cơ PBM Mariner thuộc Liên đội Tuần tra Ném bom VPB-20 đặt căn cứ tại Tinian phát hiện qua radar lúc 19 giờ 30 phút. Trong khi chiếc PBM Mariner còn đang xác minh lai lịch chiếc tàu ngầm, mục tiêu lặn xuống rõ ràng là để né tránh, nên chiếc thủy phi cơ tấn công với hai quả mìn sâu và một quả ngư lôi dò âm Mark 24 "Fido".I-48 sống sót qua đợt tấn công, nhưng phải hủy bỏ kế hoạch tấn công Ulithi bằng ngư lôi Kaiten.

Chiếc PBM Mariner báo cáo tọa độ mục tiêu cho một đội tìm-diệt tàu ngầm, nên các tàu hộ tống khu trục , và thuộc Đội hộ tống 65 Hải quân Hoa Kỳ, do Conklin làm soái hạm, bắt đầu truy tìm I-48. Tư lệnh Đội hộ tống 65 dự đoán chiếc tàu ngầm đã bị hư hại, nên sẽ hướng về phía Yap còn do phía Nhật Bản chiếm giữ với tốc độ trung bình . Sau khi truy tìm không có kết quả, đội hộ tống bắt đầu mở rộng phạm vi tìm kiếm đến Yap kéo dài sang ngày 22 tháng 1.

Lúc 03 giờ 10 phút ngày 23 tháng 1, I-48 đang ở vị trí về phía Đông Bắc Yap và di chuyển trên mặt nước về hướng Tây Nam với tốc độ khi nó bị Corbesier phát hiện qua radar ở khoảng cách . Corbesier tiếp cận mục tiêu và I-48 lặn xuống ẩn nấp. Corbesier lại dò được tín hiệu I-48 bằng sonar lúc 03 giờ 36 phút, nhưng loạt súng cối chống ngầm Hedgehog đầu tiên bắn ra bị trượt. Trong khi ConklinRaby đi đến hiện trường, Corbesier bắn thêm năm loạt Hedgehog khác mà vẫn không trúng đích, rồi mất dấu mục tiêu.

Corbesier lại dò được tín hiệu sonar trở lại lúc 09 giờ 02 phút, và bắn ra một loạt Hedgehog nhưng không có kết quả.Nó dò được tín hiệu sonar trở lại lúc 09 giờ 12 phút, nhưng mất dấu mục tiêu trước khi kịp khai hỏa.Tuy nhiên, Conklin bắn ra một loạt Hedgehog tấn công lúc 09 giờ 34 phút từ khoảng cách .Mười bảy giây sau đó, nó nghe thấy bốn hoặc năm vụ nổ dưới nước ở độ sâu ước lượng khoảng , rồi tiếp nối bằng một vụ nổ lớn dưới nước lúc 09 giờ 36 phút, đến mức Conklin tạm thời bị hỏng động cơ và bánh lái. Conklin nhìn thấy bọt khí trồi lên mặt nước, tiếp nối với dầu, mảnh vỡ và nhiều mảnh xác người, xác nhận I-48 bị đánh chìm tại tọa độ hay , căn cứ theo các nguồn khác nhau. Toàn bộ 122 người trên tàu, bao gồm 118 thành viên thủy thủ đoàn cùng bốn hoa tiêu Kaiten, đều tử trận.

Bộ tư lệnh Đệ Lục hạm đội tìm cách liên lạc với I-48 vào ngày 31 tháng 1, ra lệnh cho nó đi đến Kure, Hiroshima, nhưng chiếc tàu ngầm đã không hồi đáp. Tên nó được cho rút khỏi đăng bạ hải quân vào ngày 10 tháng 5, 1945.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_I-48_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C2 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-124_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 52_** và mang tên **_I-24_** từ năm 1927 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
**_I-121_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 48_** và mang tên **_I-21_** từ năm 1924 đến năm 1938 là một tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu
**_I-36_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_I-47_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C2 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-53_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C3 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu ngầm
**_I-56_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944, nó hoạt động
**_I-24_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu ngầm thứ hai của
**_I-27_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_I-45_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó hoạt động
**_I-28_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó nhập biên chế năm 1942, nhưng
Ít nhất hai tàu ngầm của Hải quân Đức từng được đặt cái tên **_U-48_**: * là một tàu ngầm hạ thủy năm 1915, phục vụ trong Thế Chiến I và bị đánh đắm năm
**Tàu ngầm lớp** **_Ko-hyoteki_** (甲標的, Kō-hyōteki), hay tàu ngầm **Kōryū** (蛟竜) là tàu ngầm loại nhỏ được Nhật Bản sử dụng trong chiến tranh thế giới thứ hai. Chúng có số trên thân tàu nhưng
thumb|upright=1.35| – chiếc dẫn đầu của lớp tàu ngầm SSBN đầu tiên của [[Hải quân Hoa Kỳ. _George Washington_ cũng là tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân đầu tiên có khả năng răn
Tàu ngầm **_lớp Virginia_**, hay **lớp SSN-774**, là một loại tàu ngầm tấn công nhanh, chạy bằng năng lượng hạt nhân, mang tên lửa hành trình đang được trang bị cho Hải quân Mỹ. Tàu
**_Lớp tàu ngầm Seawolf_** là một lớp tàu ngầm tấn công nhanh (SSN) sử dụng năng lượng hạt nhân, là lực lượng nòng cốt của đội tàu ngầm của Hải quân Liên bang Mỹ (USN).
**Lớp tàu ngầm _Tambor**_ bao gồm mười hai tàu ngầm diesel-điện được Hải quân Hoa Kỳ đưa vào hoạt động ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Chúng là những tàu ngầm hạm đội
là một lớp tàu ngầm hạng nhất phục vụ cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Những tàu ngầm _Type C_ được trang bị vũ khí mạnh hơn
Tàu ngầm lớp Victor, ký hiệu theo Liên Xô: **Project 671 _Yorsh**_, **Project 671RT _Syomga_** và **Project 671RTM/RTMK _Shchuka**_, (tên gọi của NATO **Victor I**, **Victor II** và **Victor III**, là một lớp tàu ngầm
Đây là danh sách các tàu chiến thuộc Đế quốc Nhật Bản. ## Tàu chiến trung cổ * Atakebune, Tàu chiến cận bờ thế kỉ 16. * Châu Ấn Thuyền – Khoảng 350 tàu buồm
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Lion**_ bao gồm hai tàu chiến-tuần dương được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Mang biệt danh "Splendid Cats", Nó đã đánh
**USS _West Virginia_ (BB-48)** (tên lóng "Wee Vee"), là một thiết giáp hạm thuộc lớp _Colorado_, và là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này nhằm tôn
nhỏ|phải|[[HMS Hood (51)|HMS _Hood_, tàu chiến-tuần dương lớn nhất từng được chế tạo, lớn hơn mọi thiết giáp hạm Anh Quốc cho đến khi chiếc HMS _Vanguard_ đưa ra hoạt động vào năm 1946. Nó
**_Kongō_** (tiếng Nhật: 金剛, Kim Cương) là chiếc tàu chiến-tuần dương đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc kiểu siêu-Dreadnought, là chiếc dẫn đầu của lớp Kongō bao gồm những chiếc _Hiei_,
**Lớp tàu sân bay _Graf Zeppelin**_ là hai tàu sân bay của Hải quân Đức được đặt lườn vào giữa những năm 1930 như một phần của Kế hoạch Z nhằm tái vũ trang. Bốn
**Mặt trận Balkan** (28 tháng 7 năm 1914 - 29 tháng 9 năm 1918) hay **Chiến trường Balkan** là một trong những mặt trận của Chiến tranh thế giới thứ nhất, diễn ra trên bán
**_Yūgiri_** (tiếng Nhật: 夕霧) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn chiếc, được chế tạo sau khi Chiến tranh Thế
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Invincible**_ bao gồm ba chiếc được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc và được đưa ra hoạt động vào năm 1908 như những tàu chiến-tuần dương đầu tiên
**_Graf Zeppelin_** là tàu sân bay duy nhất của Đức được hạ thủy trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, tiêu biểu phần nào cho những nỗ lực của Hải quân Đức để tạo ra
**Tàu khu trục Type 052C** (NATO/OSD định danh **tàu khu trục lớp Lữ Dương II**) là một lớp tàu khu trục mang tên lửa dẫn đường được chế tạo cho Hải quân Trung Quốc (PLAN).
**Tàu khu trục lớp _Gwanggaeto the Great**_ hay **lớp _Gwanggaeto Đại đế_** (), còn được gọi là **KDX-I**, là một lớp tàu khu trục của Hải quân Hàn Quốc, một số nguồn khác phân loại
là một cặp tàu tuần dương bọc thép lớn được đóng cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 20. Các tàu bắt đầu được đóng giữa cuộc
**HMS _Ramillies_ (07)** là một thiết giáp hạm thuộc lớp _Revenge_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Tên của nó được đặt theo trận Ramillies. _Ramillies_ từng hoạt động trong cả Chiến tranh Thế
**Chiến dịch Guadalcanal**, còn gọi là **Trận Guadalcanal**, tên mã của Đồng Minh là **Chiến dịch Watchtower**, diễn ra từ ngày 7 tháng 8 năm 1942 đến ngày 9 tháng 2 năm 1943 trên đảo
là tên gọi cuộc triệt thoái của quân Nhật ra khỏi đảo Guadalcanal diễn ra từ ngày 14 tháng 1 đến 7 tháng 2 năm 1943. Cuộc triệt thoái này được tiến hành với sự
**USS _Bangust_ (DE- 739)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Cannon_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất
**USS _Wyman_ (DE-38)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Evarts_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu quân sự đầu tiên của
**USS _Wasp_ (CV/CVA/CVS-18)** là một trong số 24 tàu sân bay thuộc lớp _Essex_ được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ trong Thế Chiến II, và là chiếc tàu chiến thứ chín của Hải
**USS _Raby_ (DE-698/DEC-698)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Buckley_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên nó được đặt theo Chuẩn đô đốc James
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Indefatigable**_ là lớp tàu chiến-tuần dương thứ hai của Anh Quốc, đã phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Anh và Hải quân Hoàng gia Australia trong Chiến tranh Thế giới
**Vũng Tàu** là một thành phố cũ thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, vùng Đông Nam Bộ, Việt Nam. Đây là trung tâm kinh tế, tài chính, văn hóa, du lịch, và là một
**USS _Edsall_ (DD-219)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và đã tiếp tục phục vụ vào đầu Chiến tranh
**USS _Fletcher_ (DD/DDE-445)** là chiếc dẫn đầu của lớp tàu khu trục _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của
**USS _Charrette_ (DD-581)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**Bà Rịa – Vũng Tàu** (viết tắt **BRVT**) là một tỉnh cũ ven biển thuộc vùng Đông Nam Bộ, Việt Nam. Ngày 12 tháng 6 năm 2025, Quốc hội thông qua Nghị quyết số 202/2025/QH15
**Alexios I Komnenos** (, 1048 hoặc 1056 – 15 tháng 8, 1118), là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 1081 đến năm 1118. Xuất thân là một tướng lĩnh và điền chủ, dù không phải
**Trận tấn công Trân Châu Cảng** (hay **Chiến dịch Hawaii** và **Chiến dịch AI** của Hawaii, và **Chiến dịch Z** theo cách gọi của Bộ Tổng tư lệnh Đế quốc Nhật Bản) là một cuộc
**Chiến dịch Philippines (1941–1942)** (tiếng Philippines: Kampanya sa Pilipinas, tiếng Tây Ban Nha: Campaña en las Filipinas del Ejercito Japonés, tiếng Nhật: フィリピンの戦い, tiếng Lating: Firipin no Tatakai), hay còn được biết đến với tên
**HMS _New Zealand**_ là một trong số ba chiếc tàu chiến-tuần dương lớp _Indefatigable_ được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo để bảo vệ các lãnh thổ của Đế quốc Anh. Được hạ
nhỏ|HMS Dreadnought **Thiết giáp hạm** ()là một loại tàu chiến lớn được bọc thép dày với dàn hỏa lực chính bao gồm pháo có cỡ nòng rất lớn (trên 300mm). Thiết giáp hạm là loại