✨I-27 (tàu ngầm Nhật)

I-27 (tàu ngầm Nhật)

I-27 là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã từng tham gia trận chiến biển Coral và tấn công cảng Sydney, trước khi chủ yếu hoạt động tuần tra tại Ấn Độ Dương từ giữa năm 1942 đến đầu năm 1944. I-27 bị các tàu khu trục Anh và đánh chìm gần Maldives vào ngày 12 tháng 2, 1944.

Thiết kế và chế tạo

Thiết kế

Tàu ngầm Type B được cải tiến từ phân lớp KD6 của lớp tàu ngầm Kaidai dẫn trước, và được trang bị một thủy phi cơ nhằm tăng cường khả năng trinh sát. Chúng có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn, Nó được đổi tên thành I-29 đồng thời được hạ thủy vào ngày 6 tháng 6, 1940, Tàu buôn SS Iron King tháp tùng đã nả pháo 4-inch tấn công I-27, và một máy bay tuần tra Lockheed Hudson thuộc Liên đội 7 Không quân Hoàng gia Australia (RAAF) tiếp tục ném hai quả bom 250-lb, tất cả đều không trúng đích. thủy thủ đoàn đã kịp thời bỏ tàu, nhưng chỉ có một người sống sót được một thuyền buồm Ả Rập cứu vớt sau đó.

Đến ngày 24 tháng 3, I-27 tấn công một tàu chở dầu không rõ nhận dạng ở vị trí phía Tây Bắc quần đảo Chagos. sáu thủy thủ cùng hai pháo thủ đã thiệt mạng, và có 58 người sống sót được cứu vớt. Trong vịnh Oman về phía Đông Nam Jask, Iran vào ngày 24 tháng 6, I-27 phóng ngư lôi tấn công tàu chở dầu vũ trang Anh Britsh Venture (4.696 tấn) đang vận chuyển dầu hỏa và xăng từ Abadan, Iran sang Bombay, Ấn Độ. Hai phút sau khi trúng ngư lôi, chiếc tàu chở dầu bốc cháy và đắm tại tọa độ , khiến 37 thủy thủ cùng năm pháo thủ thiệt mạng.

Bốn ngày sau đó, cũng trong vịnh Oman ngoài khơi cảng Muscat, ]], I-27 phóng ngư lôi tấn công tàu chở hàng Na Uy Dah Puh (1.974 tấn) đang trong hành trình từ Basra đến Karachi. Dah Puh vỡ làm đôi lúc 08 giờ 05 phút, phần đuôi đắm ngay lập tức và phần mũi đắm nhiều giờ sau đó, khiến khoảng 44 thủy thủ và công nhân thiệt mạng. Trong vịnh Oman vào ngày 5 tháng 7, I-27 tấn công Đoàn tàu PA 44 đang trong hành trình từ Abadan sang Montevideo, Uruguay. Ngư lôi đã đánh trúng tàu chở hàng Hoa Kỳ Alcoa Protector (6.797 tấn) lúc 06 giờ 10 phút, nên thủy thủ đoàn đã bỏ tàu tại tọa độ . Tuy nhiên chiếc tàu buôn đã không đắm, và sau đó được kéo đến Bandar-Abbas, Iran, trở thành một tổn thất toàn bộ.

I-27 kết thúc chuyến tuần tra và quay trở về Penang vào ngày 14 tháng 7. Nó lại rời Penang một tuần sau đó để đi sang Singapore, nơi nó được đại tu, và sau khi hoàn tất, con tàu quay trở lại Penang vào ngày 19 tháng 8.

Chuyến tuần tra thứ tám

I-27 khởi hành từ Penang vào ngày 29 tháng 8 cho chuyến tuần tra thứ tám, để tiếp tục đánh phá đường giao thông đối phương trong Ấn Độ Dương. Vào ngày 7 tháng 9, nó phóng ngư lôi tấn công tàu Liberty Hoa Kỳ Lyman Stewart (7.176 tấn) vốn đang trong hành trình từ Colombo, Ceylon đến Durban, Nam Phi. Chiếc tàu Liberty trúng một quả ngư lôi tại tọa độ , nhưng không kích nổ và con tàu chỉ bị hư hại nhẹ. I-27 trồi lên mặt nước để tìm cách tiếp tục tấn công bằng hải pháo, nhưng bị pháo từ Lyman Stewart bắn trả, nên phải lặn xuống và bỏ đi. Hai ngày sau đó, ở vị trí cách về phía Tây Cape Comorin, Ấn Độ, I-27 lại phóng ngư lôi tấn công tàu buôn vũ trang Anh Larchbank (5.151 tấn) vốn đang vận chuyển 7.394 tấn hàng tiếp liệu quân sự, bao gồm 4 xe tăng và 8 xuồng đổ bộ, trong hành trình từ Baltimore đến Calcutta. Larchbank đắm chỉ hai phút sau khi trúng ngư lôi tại tọa độ , khiến 40 thủy thủ và sáu pháo thủ thiệt mạng. 23 người sống sót được cứu vớt và đưa đến Ceylon.

I-27 kết thúc chuyến tuần tra và quay trở về Penang vào ngày 24 tháng 9. Nó lại rời Penang vào ngày hôm sau để đi sang Singapore, nơi nó được đại tu, và sau khi hoàn tất, con tàu quay trở lại Penang vào ngày 11 tháng 10.

Chuyến tuần tra thứ chín

I-27 khởi hành từ Penang vào ngày 19 tháng 10 cho chuyến tuần tra thứ chín, hoạt động tại khu vực vịnh Aden và biển Ả Rập. Trong các ngày 30 và 31 tháng 10, nó lần lượt trinh sát các cảng Maqatin-al-Kabir và Mukalla dọc bờ biển phía Nam Yemen. Đến ngày 10 tháng 11, trong vịnh Aden về phía Đông Nam Hodeida, Yemen, I-27 phóng ngư lôi tấn công tàu Liberty Anh Sambo (7.219 tấn) đang thực hiện chuyến hải trình đầu tiên từ Iquique, Peru đến Suez, Ai Cập. Sambo đắm tại tọa độ , khiến ba thủy thủ và chín pháo thủ thiệt mạng, và có 35 người sống sót được cứu vớt.

Đến ngày 18 tháng 11, ở vị trí về phía Đông Nam Aden, I-27 lại phóng ngư lôi tấn công tàu Liberty Anh Sambridge (7.176 tấn) đang thực hiện chuyến hải trình đầu tiên từ Madras, Ấn Độ đến Aden. Sambridge đắm tại tọa độ ; một sĩ quan của Sambridge bị I-27 bắt làm tù binh chiến tranh và giam giữ tại nhà tù Changi, Singapore, nhưng 48 người khác sống sót đã được cứu vớt. Sang ngày 27 tháng 11, chiếc tàu ngầm trinh sát đảo Perim tại eo biển Bab-el-Mandeb, rồi hai ngày sau đó trong vịnh Aden, lúc 16 giờ 30 phút, I-27 phóng ngư lôi tấn công tàu buôn Hy Lạp Athina Livanos (4.824 tấn), khiến mục tiêu đắm tại tọa độ ; chín thủy thủ và hai hành khách đã thiệt mạng.

Đến ngày 2 tháng 12, ở vị trí về phía Nam Aden, I-27 phóng ngư lôi tấn công tàu buôn Hy Lạp Nitsa (4.732 tấn) đang trong hành trình từ Calcutta đến Aden. Nitsa đắm tại tọa độ ; mười một thủy thủ đã thiệt mạng. Sang ngày hôm sau, trong vịnh Aden ngoài khơi bờ biển Somaliland lúc 20 giờ 03 phút, I-27 lại phóng ngư lôi và gây hư hại cho tàu buôn Canada Fort Camosun (7.126 tấn) tại tọa độ . Chiếc tàu buôn tiếp tục hành trình và đi đến được cảng Calcutta. Đến ngày 15 tháng 12, Đội tàu ngầm 14 được giải thể, và I-27 được điều trực thuộc Đệ Bát hạm đội. Chiếc tàu ngầm kết thúc chuyến tuần tra và quay trở về Penang hai ngày sau đó.

1944

Chuyến tuần tra thứ mười - Bị mất

I-27 xuất phát từ Penang vào ngày 4 tháng 2, 1944 cho chuyến tuần tra thứ mười, cũng là chuyến cuối cùng, để đánh phá tuyến liên lạc đối phương trong vịnh Aden. Ngoài 98 thành viên thủy thủ đoàn, trên tàu còn có một thông tín viên báo The Asahi Shimbun.

Giữa Ấn Độ Dương gần quần đảo Maldives vào ngày 12 tháng 2, I-27 bắt gặp Đoàn tàu KR-8 bao gồm năm tàu chở quân được một tàu tuần dương hạng nặng và hai tàu khu trục Anh hộ tống đang trong hành trình từ Mombasa, Kenya đi sang Colombo, Ceylon. I-27 phóng một loạt bốn quả ngư lôi tấn công mục tiêu chính là tàu tuần dương chồng lấp với một tàu vận tải, và hai quả ngư lôi đã đánh trúng lúc 14 giờ 33 phút, khiến nó vỡ làm đôi và đắm chỉ trong vòng hai phút tại tọa độ ; 1.279 hành khách và thủy thủ đã thiệt mạng cùng con tàu.

Các tàu khu trục và hộ tống cho Đoàn tàu KR-8 bắt đầu truy tìm đối phương, thả nhiều lượt mìn sâu tấn công những tín hiệu sonar dò được. Đến 16 giờ 20, I-27 trồi lên mặt nước cách hai chiếc tàu khu trục khoảng , tiếp tục chịu đựng hỏa lực hải pháo từ hai tàu chiến Anh. Paladin tìm cách húc đối thủ nhưng không thành công và chịu đựng hư hại. Đến 17 giờ 00, Petard bắt đầu phóng ngư lôi vào chiếc tàu ngầm, và quả ngư lôi thứ bảy trúng đích lúc 17 giờ 23 phút đã đánh chìm I-27 tại tọa độ .

Đến ngày 15 tháng 5, 1944, Hải quân Nhật Bản công bố I-27 có thể đã bị mất tại khu vực Ấn Độ Dương với tổn thất toàn bộ 99 người trên tàu. Tên nó được cho rút khỏi đăng bạ hải quân vào ngày 10 tháng 7, 1944.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_I-27_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_I-15_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã
**_I-122_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 49_** và mang tên **_I-22_** từ năm 1926 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
**_I-69_**, sau đổi tên thành **_I-169_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**_I-26_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_I-35_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_I-121_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 48_** và mang tên **_I-21_** từ năm 1924 đến năm 1938 là một tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu
**_I-36_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_I-44_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944, nó từng thực
**_I-367_** là một tàu ngầm vận tải thuộc lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã tham
**_I-2_** là một tàu ngầm tuần dương lớp bao gồm bốn chiếc có trọng lượng choán nước lên đến 2.135 tấn, được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến
**_I-185_** (nguyên mang tên **_I-85_**) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1943. Nó đã hoạt động trong Chiến
**_I-58_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Đang khi chế tạo, nó được cải biến
**_I-20_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã
**_I-33_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_I-68_**, sau đổi tên thành **_I-168_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**_I-183_** (nguyên mang tên **_I-83_**) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1943. Nó đã hoạt động trong Chiến
**_I-29_**, tên mã _Matsu_, là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm
**_I-65_**, sau đổi tên thành **_I-165_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai V nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1932. Nó đã phục vụ trong
**_I-22_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu ngầm thứ hai của
**_I-3_** là một tàu ngầm tuần dương lớp bao gồm bốn chiếc có trọng lượng choán nước lên đến 2.135 tấn, được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến
**_I-75_**, sau đổi tên thành **_I-175_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**_I-177_** (nguyên là **_tàu ngầm số 155_**, rồi **_I-77_** cho đến ngày 20 tháng 5, 1942) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc
**_I-6_** là một tàu ngầm tuần dương, là chiếc duy nhất thuộc phân lớp của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, và có khả năng mang máy bay. Nhập biên chế năm 1935, _I-6_ đã
**_I-47_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C2 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-53_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C3 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu ngầm
**_I-64_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai IV nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1930. Nó đã phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_I-18_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã
**_I-23_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_I-66_**, sau đổi tên thành **_I-166_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai V nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1932. Nó đã phục vụ trong
**_I-28_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó nhập biên chế năm 1942, nhưng
**_I-1_** là một tàu ngầm lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu ngầm tuần dương
**_I-5_** là chiếc tàu ngầm mang máy bay đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản và đã hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Là chiếc duy nhất trong phân lớp
**_I-56_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944, nó hoạt động
**_I-10_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_I-19_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_I-32_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_I-41_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó tham gia hoạt
**_I-363_** là một tàu ngầm vận tải thuộc lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-42_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó chỉ kịp thực
**_I-45_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó hoạt động
**_I-16_** là một tàu ngầm tuần dương, là chiếc dẫn đầu của lớp Type C được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế
**_I-72_**, sau đổi tên thành **_I-172_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**Tàu ngầm Klasse UC-I** là loại tàu ngầm nhỏ dùng để đặc thủy lôi ven biển (U-boats) được đóng bởi Đức khi chiến tranh thế giới thứ nhất vừa bắt đầu. Chúng là loại tàu
Ít nhất ba tàu ngầm của Hải quân Đức từng được đặt cái tên **_U-27_**: * là chiếc dẫn đầu của hạ thủy năm 1913, phục vụ trong Thế Chiến I và bị đánh chìm
_U-161_ là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type IXC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
thumb|upright=1.35| – chiếc dẫn đầu của lớp tàu ngầm SSBN đầu tiên của [[Hải quân Hoa Kỳ. _George Washington_ cũng là tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân đầu tiên có khả năng răn
**Tàu ngầm lớp I-15** (cũng được biết đến như tàu ngầm Kiểu B1) là loại tàu ngầm có số lượng lớn nhất mà Hải quân Hoàng gia Nhật Bản từng sử dụng trong chiến tranh
**Tàu ngầm Kiểu _Kaidai**_ (海大型潜水艦, _Kaidai-gata sensuikan_) là một lớp tàu ngầm hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản hoạt động trước và trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Tên lớp tàu