I-123, nguyên là Tàu ngầm số 50 và mang tên I-23 từ năm 1927 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp I-121 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn giữa hai cuộc thế chiến. Nhập biên chế năm 1928, nó đã phục vụ trong cuộc Chiến tranh Trung-Nhật và trong giai đoạn đầu của Chiến tranh Thế giới thứ hai, bao gồm các Chiến dịch Mã Lai và Philippines, cuộc ném bom Darwin và trận Midway, cũng như các Chiến dịch Guadalcanal và Đông Solomon, cho đến khi bị tàu khu trục rải mìn Hoa Kỳ đánh chìm tại khu vực Guadalcanal vào ngày 29 tháng 8, 1942.
Thiết kế và chế tạo
Thiết kế
Lớp I-121 là lớp tàu ngầm chuyên rải thủy lôi duy nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Hải quân Nhật Bản gọi tên lớp tàu này như là ; là tên rút gọn từ . Thiết kế của chúng dựa trên chiếc tàu ngầm rải mìn , một chiếc Type UE II của Hải quân Đế quốc Đức, là chiếc lớn nhất trong số bảy tàu ngầm Đức mà Nhật Bản nhận được sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất như là chiến lợi phẩm bồi thường chiến tranh. U-125 đã phục vụ cùng Hải quân Nhật Bản như là chiếc O-6 trong những năm 1920-1921.
Giống như U-125, tàu ngầm kiểu Kiraisen có hai động cơ diesel cung cấp tổng công suất , có khả năng mang theo 42 quả thủy lôi, có bốn ống phóng ngư lôi cùng một khẩu hải pháo trên boong tàu với cỡ nòng của Nhật Bản thay cho cỡ trên U-125. So sánh với chiếc tàu ngầm Đức nguyên mẫu, lớp I-125 có kích thước lớn hơn, dài hơn và trọng lượng choán nước nặng hơn 220 tấn khi nổi và 300 tấn khi lặn — và có tầm hoạt động xa hơn ở tốc độ khi nổi và ở tốc độ khi lặn. Tuy nhiên I-125 chậm hơn cả khi nổi và lặn, mang theo ít hơn hai ngư lôi, và chỉ có thể lặn sâu đến khi so với của U-125.
Chế tạo
I-123 được đặt lườn như là chiếc Tàu ngầm số 50 tại xưởng tàu của hãng Kawasaki ớ Kobe vào ngày 12 tháng 6, 1925. Nó được đổi tên thành I-23 I-23 được cho xuất biên chế vào ngày hôm đó Đến ngày 20 tháng 6, 1938, Đội tàu ngầm 9 được phân về Trường pháo binh trực thuộc Quân khu Hải quân Yokosuka. Chúng xuất phát từ Sasebo vào ngày 16 tháng 5, viếng thăm các vùng biển thuộc các quần đảo Caroline, Marshall và Mariana, trước khi kết thúc chuyến đi tại Yokosuka vào ngày 22 tháng 9, 1940.
Đội tàu ngầm 9 lại được đưa về trực thuộc Quân khu Hải quân Yokosuka từ ngày 15 tháng 11, 1940, Các thủy phi cơ H8K sẽ bay đến bãi cạn Frigate Pháp vào ngày 30 tháng 5, được tiếp nhiên liệu, và tiến hành trinh sát bên trên Trân Châu Cảng vào ngày 31 tháng 5.
Tuy nhiên khi I-123 đi đến bãi cạn Frigate Pháp vào ngày 29 tháng 5, nó phát hiện các tàu tiếp liệu thủy phi cơ Hoa Kỳ và đang cho hoạt động thủy phi cơ tại đây. Nó trồi lên mặt nước vào ban đêm để báo cáo tình huống qua vô tuyến về căn cứ, nên hoạt động trinh sát bị hoãn lại 24 giờ. Khi chiếc tàu ngầm trinh sát bãi cạn Frigate Pháp một lần nữa vào ngày 31 tháng 5, các tàu chiến Hoa Kỳ vẫn hiện diện tại đây và thủy phi cơ đối phương hoạt động trong vũng biển. Những phát hiện này khiến phía Nhật Bản kết luận Hải quân Mỹ đã sử dụng nơi đây như một căn cứ thủy phi cơ, nên Chiến dịch K-2 bị hủy bỏ. Sau khi nhiệm vụ hỗ trợ các thủy phi cơ bị hủy bỏ, I-121, I-122 và I-123 di chuyển đến các trạm tuần tra mới vào ngày 4 tháng 6 nhằm chuẩn bị cho hoạt động chiếm Midway sắp diễn ra. Trận Midway bắt đầu vào ngày hôm đó, và kết thúc vào ngày 7 tháng 6 với một thất bại mang tính quyết định cho phía Nhật Bản, nên họ phải hủy bỏ ý định chiếm đóng Midway. I-123 kết thúc chuyến tuần tra khi cùng với I-121 và I-122 về đến Kwajalein vào ngày 25 tháng 6.
I-123 chỉ dừng lại Kwajalein một thời gian ngắn, khi nó lên đường ngay trong ngày hôm đó để quay trở về Nhật Bản, đi đến Yokosuka vào ngày 5 tháng 7. Trong giai đoạn này Đội tàu ngầm 13 được điều động sang Hải đội Tàu ngầm 7 trực thuộc Đệ Bát hạm đội vào ngày 14 tháng 7. I-123 khởi hành từ Yokosuka vào ngày 26 tháng 7, và đi đến Truk để đảm nhiệm vai trò mới. Chiếc tàu ngầm có thể đã ghé đến Truk trong ngày 1 tháng 8 rồi lập tức lên đường, đi đến Rabaul vào ngày 5 tháng 8; hoặc đã đi đến và ở lại Truk từ ngày 2 tháng 8 cho đến khi thực hiện chuyến tuần tra tiếp theo.
Chuyến tuần tra thứ năm
Chiến dịch Guadalcanal diễn ra từ ngày 7 tháng 8, khi lực lượng Đồng Minh đổ bộ lên Guadalcanal, Tulagi, đảo Florida, Gavutu và Tanambogo ở phía Đông Nam quần đảo Solomon. Vào ngày hôm đó, I-123 khởi hành từ Truk hoặc Rabaul cho chuyến tuần tra thứ năm và hoạt động tại khu vực eo biển Indispensable thuộc quần đảo Solomon. Tuy nhiên sau khi ra khơi, nó được lệnh chuyển hướng đến trinh sát Lungga Roads ngoài khơi bờ biển phía Bắc Guadalcanal. Nó đi đến Lungga Point tại bờ biển phía Bắc Guadalcanal vào ngày 11 tháng 8, rồi lên mặt nước ngoài khơi Lungga Point lúc 11 giờ 00 ngày 12 tháng 8 để bắn phá các vị trí của lực lượng Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ tại Guadalcanal, bắn 14 phát đạn pháo từ khẩu hải pháo 14 cm của nó. Đối phương đã phản pháo, nhưng chiếc tàu ngầm đã lặn xuống mà không bị hư hại; và đến cuối ngày hôm đó nó được lệnh liên lạc với đơn vị Lục quân Nhật Bản trú đóng tại Taivu Point xa hơn về phía Đông dọc bờ biển Guadalcanal. Nó tìm cách liên lạc với đơn vị bạn trong ngày 16 tháng 8, nhưng không tìm thấy đơn vị này.
Khi Trận Đông Solomon bắt đầu diễn ra từ ngày 24 tháng 8, I-123 được lệnh liên lạc với một đơn vị trinh sát duyên hải tại bờ biển đảo Florida. Sau khi việc bắt liên lạc thất bại, chiếc tàu ngầm được lệnh tuần tra tại khu vực phía Đông đảo Savo.
Bị mất
Tại khu vực tuần tra mới, I-123 bắt gặp một thủy phi cơ Đồng Minh lúc 01 giờ 25 phút ngày 29 tháng 8, buộc nó phải lặn khẩn cấp để ẩn nấp. Chiếc tàu ngầm báo cáo sự việc này qua bức điện lúc 03 giờ 12 phút, và sau đó nó hoàn toàn mất liên lạc với căn cứ.
Lúc 08 giờ 05 phút, tàu khu trục rải mìn Hoa Kỳ , đang trong hành trình đi đến Guadalcanal trong thành phần Đơn vị Đặc nhiệm 62.2.4, nhìn thấy tháp chỉ huy của I-123 khi chiếc tàu ngầm lặn xuống ở vị trí về phía Đông đảo Savo. Sử dụng một bộ dò dị thường từ để theo dõi đối phương, Gamble tung ra nhiều lượt tấn công bằng mìn sâu từ 08 giờ 44 phút đến 11 giờ 47 phút. Sau lượt tấn công cuối cùng, Gamble băng ngang qua một vệt dầu loang lớn, quan sát thấy một bọt khí lớn trồi lên mặt nước, và thu được một mảnh gỗ lát sàn tàu. Các chứng cứ này xác nhận tàu ngầm đối phương đã bị đánh chìm tại tọa độ .
Tàu ngầm Ro-34, lúc đó đang tuần tra về phía Đông I-123, báo cáo nghe thấy nhiều tiếng nổ lớn từ phía vị trí của đồng đội vào lúc Gamble tấn công. Đến ngày 1 tháng 9, 1942, Hải quân Nhật Bản công bố I-123 có thể đã bị mất với toàn bộ 71 thành viên thủy thủ đoàn ngoài khơi Guadalcanal. Tên nó được cho rút khỏi đăng bạ hải quân vào ngày 5 tháng 10, 1942.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_I-123_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 50_** và mang tên **_I-23_** từ năm 1927 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
**_I-124_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 52_** và mang tên **_I-24_** từ năm 1927 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
**_I-121_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 48_** và mang tên **_I-21_** từ năm 1924 đến năm 1938 là một tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu
**_I-122_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 49_** và mang tên **_I-22_** từ năm 1926 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
**_I-185_** (nguyên mang tên **_I-85_**) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1943. Nó đã hoạt động trong Chiến
**_I-6_** là một tàu ngầm tuần dương, là chiếc duy nhất thuộc phân lớp của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, và có khả năng mang máy bay. Nhập biên chế năm 1935, _I-6_ đã
**_I-75_**, sau đổi tên thành **_I-175_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**_I-71_**, sau đổi tên thành **_I-171_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**_I-74_**, sau đổi tên thành **_I-174_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
Ít nhất hai tàu ngầm của Hải quân Đức từng được đặt cái tên **_U-123_**: * là một tàu ngầm hạ thủy năm 1918, phục vụ trong Thế Chiến I và đầu hàng năm 1918
là một lớp tàu ngầm rải mìn của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, phục vụ từ giữa thập niên 1920 cho đến Chiến tranh Thế giới thứ hai. Hải quân Nhật Bản gọi tên
**USS _Gamble_ (DD–123/DM-15)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Wickes_ của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, sau cải biến thành một tàu rải mìn hạng nhẹ
Đây là danh sách các tàu chiến thuộc Đế quốc Nhật Bản. ## Tàu chiến trung cổ * Atakebune, Tàu chiến cận bờ thế kỉ 16. * Châu Ấn Thuyền – Khoảng 350 tàu buồm
**Tàu khu trục lớp Kongō** (tiếng Nhật: こんごう型護衛艦) là lớp tàu khu trục mang tên lửa có điều khiển (DDG) đầu tiên của Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF) được chế tạo
**USS _Capelin_ (SS-289)** là một tàu ngầm lớp _Balao_ và là con tàu duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo loài cá trứng. _Capelin_ chìm không rõ nguyên nhân vào tháng
là tên gọi cuộc triệt thoái của quân Nhật ra khỏi đảo Guadalcanal diễn ra từ ngày 14 tháng 1 đến 7 tháng 2 năm 1943. Cuộc triệt thoái này được tiến hành với sự
**Chiến dịch Guadalcanal**, còn gọi là **Trận Guadalcanal**, tên mã của Đồng Minh là **Chiến dịch Watchtower**, diễn ra từ ngày 7 tháng 8 năm 1942 đến ngày 9 tháng 2 năm 1943 trên đảo
Chiếc **Douglas B-18 Bolo** là một máy bay ném bom của Không lực Lục quân Hoa Kỳ và Không quân Hoàng gia Canada vào cuối những năm 1930 và đầu những năm 1940. Chiếc **Bolo**
**Lớp thiết giáp hạm _North Carolina**_ là một lớp bao gồm hai thiết giáp hạm, _North Carolina_ và _Washington_, được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ vào cuối thập niên 1930 và đầu thập
**BNS _Nirmul**_ là một tàu chiến lớp "Durjoy" thuộc biên chế Hải quân Bangladesh. Đây là con tàu thứ hai thuộc lớp tàu chiến này. Chiếc tàu này phục vụ Hải quân Bangladesh từ năm
**Chiến dịch Krym – Sevastopol (1941–1942)** bao gồm toàn bộ các trận chiến đấu của quân đội Xô Viết và quân đội Đức Quốc xã cùng với quân Romania tại bán đảo Krym từ tháng
**Mặt trận Baltic** là một trong ba mục tiêu tấn công đầu tiên của quân đội Đức Quốc xã trong Chiến dịch Barbarossa. Trong tuần lễ đầu tiên của cuộc Chiến tranh Xô-Đức, tại đây
**Chiến dịch phòng ngự chiến lược Leningrad** là tổ hợp các hoạt động quân sự của quân đội Liên Xô chống lại các cuộc tấn công của quân đội Đức Quốc xã tại khu vực
**Rijeka** (tiếng Croatia: _Rijeka_, tiếng Ý và tiếng Hungary: _Fiume_, tiếng địa phương Chakavia: _Reka_ hoặc _Rika_, tiếng Slovenia: _Reka_, tiếng Đức: _Sankt Veit am Flaum_ hoặc _Pflaum_ (cả lịch sử)) là cảng biển chính
**Tên lửa chống tàu** (**tên lửa đối hạm**) là một loại tên lửa được thiết kế để chống lại các tàu trên mặt biển của hải quân. Hầu hết các tên lửa chống tàu là
**Chiến dịch tấn công chiến lược Iaşi–Chişinău** hay **Chiến dịch tấn công chiến lược Jassy-Kishinev** (,, gọi tắt là **Chiến dịch Iaşi-Chişinău** hay **Chiến dịch Jassy-Kishinev** là một chiến dịch tấn công chiến lược của
**Washington, D.C.**, tên chính thức là **Đặc khu Columbia** (), còn được gọi là **Washington** hoặc **D.C.**, là thủ đô và là đặc khu liên bang duy nhất của Hoa Kỳ. Nó tọa lạc trên
phải|Trụ sở Tupolev **Tupolev** (tiếng Nga: **Туполев**) là một công ty hàng không và quốc phòng Nga. Tên chính thức của Tupolev là **Công ty cổ phần công cộng Tupolev**. Đây là công ty kế
**Chiến dịch Krym** hay theo cách gọi của người Đức là **Trận bán đảo Krym**, là một loạt các cuộc tấn công của Hồng Quân Liên Xô nhằm vào quân đội Đức để giải phóng
**Máy bay quân sự giữa hai cuộc chiến tranh thế giới** là các máy bay quân sự được phát triển và sử dụng trong khoảng thời gian giữa Chiến tranh thế giới I và Chiến
**Chiến dịch tấn công hữu ngạn Dniepr** ở Ukraina (1944), hay còn được gọi là **Chiến dịch tấn công Dniepr–Carpath**, kéo dài từ ngày 24 tháng 12 năm 1943 đến ngày 14 tháng 4 năm
là vị Thiên hoàng thứ 122 của Nhật Bản theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống, trị vì từ ngày 13 tháng 2 năm 1867 tới khi qua đời. Ông được đánh giá là một
**Sicilia** ( , ) là một vùng hành chính tự trị của Ý. Vùng này gồm có đảo Sicilia lớn nhất Địa Trung Hải và lớn thứ 45 thế giới, cùng một số đảo nhỏ
**Đại học George Mason** (tiếng Anh: _George Mason University_; gọi tắt: _Mason_ hoặc _GMU_) là một trường đại học nghiên cứu công lập nằm tại quận Fairfax, bang Virginia, Hoa Kỳ. Trường nằm ở phía
**Trận Điện Biên Phủ** (; ), còn gọi là **Chiến dịch Điện Biên Phủ**, là trận đánh lớn nhất trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất diễn ra tại lòng chảo Mường Thanh, châu
**Bình Thủy** là một quận nội thành cũ thuộc thành phố Cần Thơ, Việt Nam. ## Địa lý Quận Bình Thủy nằm ở khu vực trung tâm của thành phố Cần Thơ, có vị trí
nhỏ|[[Đại lộ Champs-Élysées]] **Du lịch Paris** là một trong những ngành kinh tế quan trọng không chỉ của thành phố Paris mà còn cả nước Pháp vì Paris được mệnh danh là trung tâm châu
nhỏ|Bức Tranh _Die Tafelrunde_ của họa sĩ [[Adolph von Menzel. Bữa ăn của Voltaire, cùng vua Phổ Friedrich II Đại Đế và các viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Berlin.]] **Phong trào Khai sáng**,
là loạt manga do Akamatsu Ken sáng tác. Tác phẩm được đăng lần đầu tiên trên tạp chí truyện Weekly Shōnen Magazine của Nhà xuất bản Kodansha từ ngày 21 tháng 10 năm 1998 đến
Focke-Wulf **Fw 190 Würger** ("shrike"), thường gọi là **Butcher-bird**, là một kiểu máy bay tiêm kích một động cơ một chỗ ngồi của Không quân Đức, và là một trong những chiếc máy bay tiêm
thumb|Biểu ngữ tuyên truyền nhân quyền tại Việt Nam **Nhân quyền tại Việt Nam** là tổng thể các mối quan hệ xã hội liên quan đến việc thực thi quyền con người tại Việt Nam
**Bạc Liêu** là một tỉnh cũ ven biển thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long, nằm trên bán đảo Cà Mau, miền đất cực nam của Việt Nam. ## Nguồn gốc tên gọi Tỉnh Bạc
**Wŏnsan** (;hangul: 원산시; hanja: 元山市, Hán Việt: _Nguyên Sơn thị_) trước đây còn được gọi là **Wŏnsanjin** (元山津), **Port Lazarev**, và **Gensan** (元山), là một thành phố cảng và căn cứ hải quân nằm ở