Lớp tàu chiến-tuần dương _Moltke_ là một lớp gồm hai tàu chiến-tuần dương "toàn-súng lớn" được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong những năm 1909–1911. Gồm hai chiếc SMS Moltke và SMS Goeben, lớp này có thiết kế tương tự như chiếc Von der Tann dẫn trước, nhưng bao gồm nhiều cải tiến lớn hơn. Những chiếc Moltke hơi lớn hơn, nhanh hơn và có vỏ giáp tốt hơn, chúng cũng được bổ sung thêm một cặp pháo 28 cm.
Cả hai chiếc trong lớp đều đã tham gia Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Moltke tham gia nhiều trận chiến lớn cùng với phần còn lại của Hạm đội Biển khơi Đức, bao gồm các trận Dogger Bank và Jutland tại Bắc Hải cùng trận Riga và Chiến dịch Albion tại biển Baltic. Vào cuối chiến tranh, Moltke cùng với phần lớn tàu chiến của Hạm đội Biển khơi bị lưu giữ tại Scapa Flow trong khi các cuộc đàm phán hòa bình diễn ra nhằm quyết định số phận của chúng. Moltke đã bị đánh đắm cùng với hầu hết hạm đội vào ngày 21 tháng 6 năm 1919 nhằm ngăn chúng không bị rơi vào tay người Anh.
Goeben được bố trí tại Địa Trung Hải vào lúc chiến tranh nổ ra, nó thoát khỏi sự săn đuổi của hạm đội Anh để đi đến Constantinopolis. Con tàu cùng với chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ Breslau nhanh chóng được chuyển cho Hải quân Ottoman không lâu sau đó. Về mặt chiến lược, Goeben đã đóng một vai trò rất quan trọng; nó đã giúp lôi kéo Đế quốc Ottoman vào chiến tranh theo phe Trung tâm, và hoạt động như một hạm đội hiện hữu ngăn cản các nỗ lực vượt qua eo biển Bosporus của lực lượng Anh-Pháp cũng như ngăn trở việc tiến quân của Hạm đội Hắc hải của Nga. Goeben được chính quyền mới của Thổ Nhĩ Kỳ giữ lại sau chiến tranh. Chỉ được cải tiến đôi chút so với cấu hình ban đầu, nó tiếp tục phục vụ cùng Hải quân Thổ Nhĩ Kỳ cho đến khi được cho ngừng hoạt động vào ngày 20 tháng 12 năm 1950 và được rút khỏi Đăng bạ Hải quân vào ngày 14 tháng 11 năm 1954. Hai năm trước đó, khi Thổ Nhĩ Kỳ gia nhập khối NATO vào năm 1952, con tàu được gán số hiệu lườn B70. bằng một thiết kế được mở rộng. Ngân sách 44 triệu Mác vàng dành cho tài khóa 1908 tạo ra khả năng tăng cường kích cỡ vũ khí của dàn pháo chính từ trên những thiết kế trước lên . Tuy nhiên, Đô đốc Alfred von Tirpitz cùng với Văn phòng Chế tạo tranh luận rằng việc gia tăng số lượng pháo từ 8 lên 10 khẩu là hợp lý hơn, vì cỡ pháo 28 cm đã đủ để đối đầu ngay cả với thiết giáp hạm. Tirpitz còn lập luận rằng do các lực lượng tuần tiễu của Hải quân Hoàng gia Anh có ưu thế về số lượng, sẽ khôn ngoan hơn để gia tăng số lượng pháo chính thay vì gia tăng cỡ nòng.
Hợp đồng cho "Tàu tuần dương G" được trao vào ngày 17 tháng 9 năm 1908 dưới số hiệu chế tạo 200. Nó được đặt lườn vào ngày 7 tháng 12 năm 1908 và được hạ thủy vào ngày 7 tháng 4 năm 1910. "Tàu tuần dương G" được đưa ra hoạt động vào ngày 30 tháng 9 năm 1911 như là chiếc SMS Moltke.
Thiết kế
nhỏ|Tàu chiến-tuần dương Goeben
Các đặc tính chung
Những chiếc trong lớp Moltke có chiều dài chung , mạn thuyền rộng , và độ sâu của mớn nước là khi đầy tải nặng. Trọng lượng choán nước của các con tàu thông thường là , và lên đến khi đầy tải nặng. Con tàu có một thủy thủ đoàn tiêu chuẩn gồm 43 sĩ quan và 1010 thủy thủ. Khi Moltke phục vụ như soái hạm của Đội Tuần tiễu 1, nó được bổ sung thêm 13 sĩ quan và 62 thủy thủ; còn khi hoạt động như tàu chỉ huy thứ hai, nó nhận thêm 3 sĩ quan và 25 thủy thủ so với biên chế thông thường.
Hệ thống động lực
Moltke và Goeben được cung cấp động lực bởi bốn trục turbine hơi nước Parson sắp xếp thành hai bộ, và hơi nước được cung cấp bởi 24 nồi hơi Schulz-Thornycroft đốt than chia thành bốn phòng nồi hơi. Bộ turbine Parson được chia thành các cặp áp lực cao và áp lực thấp:
Hệ thống động lực của các con tàu cung cấp công suất , và đạt đến tốc độ tối đa . Tuy nhiên khi chạy thử máy, Moltke đạt đến và có tốc độ tối đa . Goeben có công suất và tốc độ tối đa thấp hơn đôi chút. đặt trên năm tháp pháo nòng đôi. Các khẩu pháo được đặt trên bệ kiểu Drh.L C/1908, có thể nâng cho đến góc 13,5°.
Vỏ giáp
Những chiếc trong lớp Moltke được trang bị vỏ giáp cấu trúc bằng thép Krupp với mức độ bảo vệ được nâng cao hơn so với thiết kế của Von der Tann. Đai giáp chính dày cho đến ở phía trước mũi, lên đến ngang với phần thành trì rồi giảm còn phía đuôi. Tháp pháo ụ có lớp bảo vệ dày ở mặt đứng và trên nóc. Tháp chỉ huy phía trước được bảo vệ bởi lớp giáp dày trong khi tháp chỉ huy phía sau chỉ dày . Các tháp pháo chính có mặt trước dày , mặt hông dày và nóc dày . Cả lớp giáp ngang lẫn lớp giáp nghiêng của sàn tàu đều dày , cũng như phần vách ngăn chống ngư lôi chung quanh các bệ tháp pháo. Phần vách ngăn chống ngư lôi còn lại tại các vị trí ít quan trọng dày .
Moltke tham gia nhiều trận chiến lớn cùng với phần còn lại của Hạm đội Biển khơi Đức trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất, bao gồm các trận Dogger Bank và Jutland tại Bắc Hải, cùng trận Riga và Chiến dịch Albion tại biển Baltic. Con tàu có mặt trong nhiều chiến dịch bắn phá bờ biển nước Anh, bao gồm cuộc bắn phá Yarmouth thứ nhất, bắn phá Scarborough, Hartlepool và Whitby cùng trận Yarmouth và Lowestoft thứ hai. Nó bị hư hại nhiều lần trong chiến tranh: bị trúng đạn pháo hạng nặng trong trận Jutland và hai lần trúng ngư lôi phóng từ tàu ngầm Anh trong các đợt tiến quân.
Khi chiến tranh kết thúc vào năm 1918, giống như phần lớn tàu chiến của Hạm đội Biển khơi, Moltke bị lưu giữ tại Scapa Flow trong khi các cuộc đàm phán hòa bình diễn ra nhằm quyết định số phận của chúng. Hầu hết hạm đội đã bị đánh đắm vào ngày 21 tháng 6 năm 1919 nhằm ngăn chúng không bị rơi vào tay người Anh.
Goeben
Sau khi cuộc Chiến tranh Balkan thứ nhất nổ ra vào tháng 10 năm 1912, Bộ Chỉ huy Tối cao Đức quyết định thành lập một hải đội Địa Trung Hải nhằm mục đích gây ảnh hưởng tại khu vực này. Hải đội mới bao gồm Goeben và chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ Breslau; hai con tàu đã rời Kiel vào ngày 4 tháng 11 và đi đến ngoài khơi Constantinopolis vào ngày 15 tháng 11. Các con tàu đã viếng thăm nhiều cảng tại Địa Trung Hải, bao gồm Venice, Pola và Naples. Cuộc chiến tranh Balkan thứ nhất kết thúc vào ngày 30 tháng 5 năm 1913, và một số đã cân nhắc đến việc rút lực lượng trở về vùng biển Đức. Tuy nhiên, xung đột lại nổ ra không đầy một tháng sau đó, vào ngày 29 tháng 6, khiến hai con tàu phải tiếp tục ở lại khu vực này.
nhỏ|trái|Yavuz (nguyên là Goeben) ngoài khơi Istanbul trong chuyến viếng thăm của thiết giáp hạm Hoa Kỳ [[USS Missouri (BB-63)|Missouri vào tháng 4 năm 1946]]
Sau vụ ám sát Thái tử Áo Franz Ferdinand vào ngày 28 tháng 6 năm 1914, Chuẩn đô đốc Wilhelm Souchon nhận ra nguy cơ xảy ra chiến tranh, nên lập tức lên đường đi Pola để sửa chữa Goeben. Sau đó các con tàu được lệnh đi đến Constantinopolis. Trên đường đi, chúng bị lực lượng Anh săn đuổi, nhưng Goeben và Breslau tìm cách lẫn thoát chúng và đến được Istanbul vào ngày 10 tháng 8 năm 1914. Bằng cách hoạt động như một hạm đội hiện hữu, Goeben đã rất hiệu quả trong việc ngăn chặn lực lượng Nga tiến vào Bosporus, và phòng thủ chống lại một cuộc xâm nhập tương tự của các chiếc tiền-dreadnought Anh và Pháp. Những tàu chiến Anh-Pháp mạnh mẽ hơn, vốn có thể đối chọi ngang ngửa với Goeben, không thể liều lĩnh tiến vào vùng biển bị rải mìn dày đặc và được các tàu ngầm U-boat Thổ Nhĩ Kỳ tuần tra.
Vào năm 1936, nó được đổi tên thành TCG Yavuz và tiếp tục làm soái hạm cho Hạm đội Thổ Nhĩ Kỳ cho đến năm 1950, mặc dù nó hầu như nằm im tại Izmit từ năm 1948. Đến năm 1952, Thổ Nhĩ Kỳ gia nhập khối NATO, và con tàu được đặt số hiệu lườn "B70". Yavuz được cho ngừng hoạt động vào ngày 20 tháng 12 năm 1950, và được rút khỏi Đăng bạ Hải quân vào ngày 14 tháng 11 năm 1954. Chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ tìm cách giữ lại con tàu như một bảo tàng, kể cả một đề nghị bán lại cho Tây Đức vào năm 1963, nhưng mọi nỗ lực đều thất bại. Goeben bị bán vào năm 1971, và cuối cùng được tháo dỡ từ năm 1973 đến năm 1976, là chiếc tàu cuối cùng còn lại của Hải quân Đế quốc Đức.
👁️
2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Moltke**_ là một lớp gồm hai tàu chiến-tuần dương "toàn-súng lớn" được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong những năm 1909–1911. Gồm hai chiếc SMS _Moltke_ và SMS _Goeben_,
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Lion**_ bao gồm hai tàu chiến-tuần dương được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Mang biệt danh "Splendid Cats", Nó đã đánh
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Derfflinger**_ là một lớp bao gồm ba tàu chiến-tuần dương của Hải quân Đế quốc Đức. Các con tàu này được đặt hàng trong Kế hoạch Chế tạo Hải quân 1912-1913
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Indefatigable**_ là lớp tàu chiến-tuần dương thứ hai của Anh Quốc, đã phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Anh và Hải quân Hoàng gia Australia trong Chiến tranh Thế giới
nhỏ|phải|[[HMS Hood (51)|HMS _Hood_, tàu chiến-tuần dương lớn nhất từng được chế tạo, lớn hơn mọi thiết giáp hạm Anh Quốc cho đến khi chiếc HMS _Vanguard_ đưa ra hoạt động vào năm 1946. Nó
**SMS _Moltke**_ là chiếc dẫn đầu trong lớp tàu chiến-tuần dương _Moltke_ của Hải quân Đế quốc Đức, tên được đặt theo Thống chế Helmuth von Moltke, Tổng tham mưu trưởng quân đội Phổ vào
**SMS _Derfflinger**_ là một tàu chiến-tuần dương của Hải quân Đế quốc Đức được chế tạo ngay trước khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất nổ ra. Nó là chiếc dẫn đầu trong lớp của
**HMS _Princess Royal**_ là một tàu chiến-tuần dương của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Là chiếc thứ hai trong lớp _Lion_ bao gồm hai chiếc, nó được
**HMS _Lion**_ là một tàu chiến-tuần dương của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó, vốn được đặt tên lóng là những "Con mèo Tráng lệ" (Splendid Cats).
**SMS _Goeben**_ là chiếc thứ hai thuộc lớp tàu chiến-tuần dương _Moltke_ của Hải quân Đế quốc Đức. Nó được hạ thủy vào năm 1911 và được đặt tên theo August Karl von Goeben, vị
**HMS _New Zealand**_ là một trong số ba chiếc tàu chiến-tuần dương lớp _Indefatigable_ được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo để bảo vệ các lãnh thổ của Đế quốc Anh. Được hạ
**Lớp tàu tuần dương _Roon**_ là lớp một lớp tàu tuần dương bọc thép gồm hai chiếc được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo vào đầu Thế kỷ 20. Hai chiếc trong lớp, _Roon_
**SMS _Seydlitz**_ là một tàu chiến-tuần dương tải trọng 25.000 tấn được Hải quân Đế quốc Đức (Kaiserliche Marine) chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Được đặt hàng vào năm 1910
**SMS _Von der Tann**_ là chiếc tàu chiến-tuần dương đầu tiên được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo, cũng là chiếc tàu chiến chủ lực đầu tiên của Đức vận hành bằng turbine hơi
**HMS _Tiger_ (1913)** là một tàu chiến-tuần dương được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất, là chiếc duy nhất trong lớp của nó. Được chế
**SMS _Hindenburg**_ là một tàu chiến-tuần dương của Hải quân Đế quốc Đức và là chiếc thứ ba thuộc lớp _Derfflinger_. Tên của nó được đặt nhằm vinh danh Thống chế Paul von Hindenburg, người
**HMS _Indefatigable**_ là một tàu chiến-tuần dương của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, là chiếc dẫn đầu của lớp _Indefatigable_, một phiên bản mở rộng so với lớp _Invincible_ dẫn trước, được cải thiện
**SMS _Lützow**_ là chiếc tàu chiến-tuần dương thứ hai thuộc lớp _Derfflinger_ của Hải quân Đế quốc Đức được chế tạo ngay trước khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất nổ ra. Được đặt hàng
**SMS _Blücher**_ là chiếc tàu tuần dương bọc thép cuối cùng được Hải quân Đế quốc Đức (_Kaiserliche Marine_) chế tạo. Được thiết kế để bắt kịp với những gì mà tình báo Đức tin
**Lớp thiết giáp hạm _König**_ là một lớp thiết giáp hạm dreadnought được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất; lớp bao gồm bốn chiếc _König_, _Grosser
**Lớp thiết giáp hạm _Helgoland**_ là lớp thiết giáp hạm dreadnought thứ hai của Hải quân Đế quốc Đức. Được chế tạo từ năm 1908 đến năm 1912, lớp bao gồm bốn chiếc: _Helgoland_, _Ostfriesland_,
**Lớp thiết giáp hạm _Bayern**_ là một lớp bao gồm bốn thiết giáp hạm "siêu-dreadnought" được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Lớp này bao gồm các
**Lớp thiết giáp hạm _Kaiser**_ là một lớp bao gồm năm thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Đức trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Chúng là lớp thiết giáp hạm dreadnought thứ
**Lớp thiết giáp hạm _Nassau**_ là một nhóm bốn thiết giáp hạm dreadnought được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức; là sự đáp trả của Đức đối với việc Hải quân Hoàng gia
**Danh sách các tàu chiến của Hải quân Đế quốc Đức** bao gồm tất cả các con tàu được đưa vào phục vụ trong Hải quân Đế quốc Đức (_Kaiserliche Marine_) của Đức, bao gồm
**SMS _Roon**_ là chiếc dẫn đầu của lớp tàu tuần dương bọc thép mang tên nó của Hải quân Đế quốc Đức. Con tàu được chấp thuận chế tạo theo đạo luật Hải quân thứ
**SMS _Yorck**_ là chiếc thứ hai cũng là chiếc sau cùng trong lớp tàu tuần dương bọc thép _Roon_ của Hải quân Đế quốc Đức. _Yorck_ được đặt tên theo Ludwig Yorck von Wartenburg, vị
**SMS _Prinz Heinrich**_ là một tàu tuần dương bọc thép được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo vào giai đoạn chuyển sang Thế kỷ 20, là chiếc duy nhất trong lớp của nó, được
**SMS _Bayern**_ là chiếc dẫn đầu cho lớp thiết giáp hạm _Bayern_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Chiếc tàu chiến được hạ thủy vào tháng
**SMS _Markgraf**_ là chiếc thứ ba trong lớp thiết giáp hạm _König_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. _Markgraf_ được đặt lườn vào tháng 11 năm
**SMS _Kaiserin**_ (_Nữ hoàng_) là chiếc thứ ba trong lớp thiết giáp hạm _Kaiser_ của Hải quân Đế quốc Đức trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất. _Kaiserin_ được đặt lườn vào ngày
**SMS _König Albert**_, tên đặt theo Vua Albert của Saxony, là chiếc thứ tư trong lớp thiết giáp hạm _Kaiser_ của Hải quân Đế quốc Đức trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất.
**SMS _Kaiser**_ (hoàng đế) là chiếc dẫn đầu của lớp thiết giáp hạm dreadnought mang tên nó được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. _Kaiser_ được đóng
**SMS _König**_ là chiếc dẫn đầu cho lớp thiết giáp hạm _König_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. König (tiếng Đức, nghĩa là Quốc vương) được
**SMS _Kronprinz**_ là chiếc cuối cùng của lớp thiết giáp hạm _König_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. _Kronprinz_ được đặt lườn vào ngày tháng 11
**SMS _Oldenburg**_ là một thiết giáp hạm dreadnought của Hải quân Đế quốc Đức trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất, là chiếc cuối cùng trong lớp thiết giáp hạm _Helgoland_ bao gồm bốn chiếc.
**SMS _Friedrich der Große**_ (_Friedrich Đại Đế_) là chiếc thứ hai trong lớp thiết giáp hạm _Kaiser_ của Hải quân Đế quốc Đức trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất. _Friedrich der Große_
**SMS _Prinzregent Luitpold**_, tên đặt theo Hoàng tử nhiếp chính Luitpold của Bavaria, là chiếc thứ năm cũng là chiếc cuối cùng trong lớp thiết giáp hạm _Kaiser_ của Hải quân Đế quốc Đức trong
**SMS _Posen**_ là một trong bốn thiết giáp hạm dreadnought đầu tiên thuộc lớp _Nassau_ được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức. Con tàu được đặt lườn tại xưởng tàu Germaniawerft ở Kiel
**SMS _Rheinland**_ là một trong bốn thiết giáp hạm dreadnought đầu tiên thuộc lớp _Nassau_ được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức. _Rheinland_ được trang bị dàn pháo chính bao gồm mười hai
**SMS _Grosser Kurfürst**_ là chiếc thứ hai trong lớp thiết giáp hạm _König_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. _Grosser Kurfürst_ (còn có thể viết là
**SMS _Helgoland**_ là một thiết giáp hạm dreadnought của Hải quân Đế quốc Đức trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm bốn chiếc. Thiết kế
**SMS _Ostfriesland**_ là một thiết giáp hạm dreadnought của Hải quân Đế quốc Đức trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất, là chiếc thứ hai trong lớp _Helgoland_ bao gồm bốn chiếc. _Ostfriesland_ được đặt
**SMS _Westfalen**_ là một trong bốn thiết giáp hạm dreadnought đầu tiên thuộc lớp _Nassau_ được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức. _Westfalen_ được đặt lườn tại xưởng tàu AG Weser ở Bremen
**SMS _Nassau**_ là chiếc thiết giáp hạm dreadnought đầu tiên được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức, một hành động đáp trả lại việc hạ thủy thiết giáp hạm HMS _Dreadnought_ của Hải
**Chiến tranh thế giới thứ nhất**, còn được gọi là **Đại chiến thế giới lần thứ nhất**, **Đệ nhất Thế chiến** hay **Thế chiến I**, là một cuộc chiến tranh thế giới bắt nguồn tại
**HMS _Thunderer**_ là một thiết giáp hạm dreadnought lớp _Orion_ được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó đã phục vụ cùng Hải đội Chiến
**Chiến tranh Pháp – Phổ** (19 tháng 7 năm 1870 – 28 tháng 1 năm 1871), thời hậu chiến còn gọi là **chiến tranh Pháp – Đức** (do sự kiện thống nhất nước Đức ở
**Friedrich Wilhelm Viktor Abert von Hohenzollern, Wilhelm II** của Phổ và Đức, (27 tháng 1 năm 1859 – 4 tháng 6 năm 1941) là vị Hoàng đế (_Kaiser_) cuối cùng của Đế quốc Đức, đồng
phải|Hình ảnh tiêu biểu của các binh đoàn cơ động [[Đức Quốc Xã trong Thế chiến thứ 2, bao gồm xe tăng, bộ binh cơ giới hoá và các binh chủng hỗ trợ.]] **Blitzkrieg**, (