✨Roon (lớp tàu tuần dương)

Roon (lớp tàu tuần dương)

Lớp tàu tuần dương _Roon_ là lớp một lớp tàu tuần dương bọc thép gồm hai chiếc được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo vào đầu Thế kỷ 20. Hai chiếc trong lớp, RoonYorck, khá tương tự như lớp Prinz Adalbert dẫn trước, nhưng bao gồm những cải tiến tích lũy dần, và phân biệt với những chiếc trước nhờ việc bổ sung một ống khói thứ tư. Giống như mọi tàu tuần dương bọc thép do Đức chế tạo, chúng được dự định sử dụng như những tàu căn cứ tại các lãnh thổ mà Đế quốc Đức sở hữu ở nước ngoài; chúng không bì được so với những đối thủ Anh đương thời.

Cả hai chiếc trong lớp đều đã phục vụ cùng Hạm đội Biển khơi Đức trong các hải đội trinh sát sau khi chúng gia nhập hạm đội vào năm 1905-1906. Khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất nổ ra vào năm 1914, chúng hoạt động cùng với các tàu chiến-tuần dương mới hơn trong thành phần Đội Tuần tiễu 1. Đang khi quay trở về cảng sau đợt bắn phá Scarborough, Hartlepool và Whitby vào ngày 16 tháng 12 năm 1914, Yorck trúng phải một quả thủy lôi Đức do đi chệch đường và bị chìm với tổn thất nhân mạng nặng nề. Roon được cho giải giới vào năm 1916, dự định để cải biến thành tàu chở thủy phi cơ nhưng công việc không được tiến hành. Cuối cùng nó bị tháo dỡ vào năm 1921.

Thiết kế

nhỏ|trái|Sơ đồ của lớp tàu tuần dương bọc thép Roon

Bối cảnh

Việc thiết kế lớp Roon có nguồn gốc từ chiếc tàu tuần dương bọc thép đầu tiên của Đức Fürst Bismarck, chế tạo từ năm 1896 đến năm 1900 cũng như của lớp tàu tuần dương bảo vệ Victoria Louise trước đó. Tàu tuần dương bọc thép Đức được thiết kế để hoạt động ở nước ngoài xa chính quốc, đặc biệt là như những tàu căn cứ tại các thuộc địa của Đức ở Châu Phi,Châu Á và Thái Bình Dương.

Công việc thiết kế hoàn tất vào năm 1901. Roon cùng con tàu chị em Yorck là những phiên bản cải tiến dựa trên lớp Prinz Adalbert dẫn trước, hơi lớn hơn và nhanh hơn, đồng thời có sơ đồ bảo vệ khác biệt đôi chút: vỏ giáp của mặt trước tháp pháo và của sàn tàu mỏng hơn. Chúng chia sẻ nhiều đặc tính sắp xếp giống như những thiết giáp hạm tiền-dreadnought của Đức đương thời, bao gồm dàn pháo chính nhỏ hơn nhưng dàn pháo hạng hai mạnh hơn những chiếc tương đương của nước ngoài. Vì vậy, chúng không thuận lợi khi được so sánh với đối thủ Anh tiềm năng. Tác giả Taylor mô tả các con tàu "được bảo vệ kém và không phải là một lớp tàu thành công trong phục vụ."

Đặc tính chung

Những chiếc trong lớp Roon có chiều dài ở mực nước là và chiều dài chung là , mạn thuyền rộng và mớn nước là . RoonYorck có trọng lượng choán nước thông thường , và lên đến khi đầy tải. Lườn tàu được cấu trúc từ những khung ngang và dọc, hình thành nên cấu trúc mà trên đó các tấm thép lườn tàu được gắn bằng đinh tán. Lườn tàu có 12 ngăn kín nước và một đáy kép chiếm 60% chiều dài con tàu. Chúng có chiều cao khuynh tâm . Thành phần thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm khoảng 35 sĩ quan và 598 thủy thủ; khi phục vụ như là soái hạm của hải đội chúng được bổ sung thêm 13 sĩ quan và 62 thủy thủ, và khi đảm nhiệm vai trò tàu chỉ huy thứ hai có thêm 9 sĩ quan và 44 thủy thủ được bổ sung vào thủy thủ đoàn.

Hệ thống động lực

RoonYorck có một hệ thống động lực tương tự như lớp dẫn trước, bao gồm ba động cơ hơi nước ba buồng bành trướng 3 xy-lanh, mỗi chiếc nối với một trục chân vịt. Chân vịt trung tâm có đường kính trong khi các chân vịt bên có đường kính . Hơi nước được cung cấp bởi 16 nồi hơi Dürr do hãng Düsseldorf-Ratinger Röhrenkesselfabrik sản xuất, mỗi nồi hơi có 3 lò đốt với tổng cộng 48 lò. Hệ thống động lực này cung cấp công suất , cho phép đạt được tốc độ tối đa . Cả hai con tàu đều có bốn máy phát turbine, cung cấp điện năng công suất 260 kW ở mức điện áp 110 volt. Chúng chỉ có một bánh lái. đặt trên hai tháp pháo nòng đôi gồm một phía trước và một phía sau. Chúng bắn ra đạn pháo xuyên thép nặng với lưu tốc đầu đạn , đạt đến tầm xa tối đa khi bắn ở góc nâng nguyên thủy tối đa 16°. Các khẩu pháo sau này được cải tiến để tăng góc nâng lên 30°, giúp mở rộng tầm xa tối đa lên .

Dàn pháo hạng hai bao gồm mười khẩu pháo SK L/40 trong các tháp pháo đơn và tháp pháo ụ cùng mười bốn khẩu SK L/35 cũng được bố trí trong các tháp pháo ụ. Các khẩu pháo 15 cm bắn ra đạn pháo nặng ở lưu tốc đầu đạn ; chúng có thể nâng tối đa đến góc 30° và đạt đến tầm xa tối đa . Kiểu pháo 8,8 cm bắn ra đạn pháo nặng ở lưu tốc đầu đạn ; chúng có thể nâng tối đa đến góc 25° và đạt đến tầm xa tối đa . ngoại trừ lượng đạn dự trữ. Những chiếc trong lớp Roon mang theo 380 quả đạn pháo cho dàn pháo chính, 1.600 quả đạn pháo 15 cm và 2.100 quả đạn pháo 8,8 cm. Kế hoạch cải biến Roon thành tàu chở thủy phi cơ dự định trang bị cho nó sáu khẩu pháo SK L/45 và sáu khẩu 8,8 cm phòng không với 2.400 quả đạn, cho dù kế hoạch này không bao giờ được thực hiện. như là sự thay thế cho chiếc tàu frigate bọc sắt cũ Kaiser, Nó được đặt lườn vào năm 1902 tại xưởng tàu Đế chế ở Kiel; nó được hạ thủy vào ngày 27 tháng 6 năm 1903 và hoàn tất vào ngày 5 tháng 4 năm 1906 với phí tổn 15.345.000 Mác. Yorck được đặt hàng dưới cái tên Ersatz Deutschland để thay thế cho Deutschland, Nó phục vụ tại đây cho đến năm 1912 khi nó được thay thế bởi chiếc tàu chiến-tuần dương mới Moltke.

Khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất bắt đầu, Roon được tái huy động và phục vụ như soái hạm của Đội Tuần tiễu 3. Con tàu đã tham gia nhiều hoạt động trong chiến tranh, bao gồm cuộc bắn phá Scarborough, Hartlepool và Whitby, nơi nó nằm trong thành phần hộ tống bảo vệ các thiết giáp hạm dreadnought của Hạm đội Biển khơi Đức. Roon cũng tiến hành nhiều hoạt động chống lại lực lượng Nga trong biển Baltic, bao gồm cuộc bắn phá các vị trí đóng quân của Nga ở Libau hỗ trợ cho bộ binh vào tháng 5 năm 1915. Trận chiến quần đảo Åland diễn ra giữa Roon cùng nhiều tàu tuần dương Đức khác với lực lượng Nga do tàu tuần dương mạnh mẽ Rurik dẫn đầu vào tháng 7 năm 1915. Đến tháng 8 RoonPrinz Heinrich tiến hành bắn phá các vị trí của quân Nga tại Zerel, đụng độ trong một lúc ngắn với nhiều tàu khu trục Nga.

Sau năm 1916, Roon được giải giáp và được sử dụng như một tàu bảo vệ và trại lính nổi tại Kiel cho đến khi kết thúc chiến tranh. Một kế hoạch vào năm 1916 để cải biến nó thành một tàu chở thủy phi cơ, nhưng chưa bao giờ được thực hiện. Con tàu được rút khỏi danh sách đăng bạ hải quân vào ngày 25 tháng 11 năm 1920 và bị tháo dỡ trong năm tiếp theo tại Kiel-Nordmole. Hipper giữ vị trí này trên chiếc Yorck từ ngày 1 tháng 10 năm 1911 đến ngày 26 tháng 1 năm 1912. Vào đầu năm 1912 con tàu được cho ngừng hoạt động khi thủy thủ đoàn của nó chuyển sang chiếc tàu chiến-tuần dương mới Seydlitz.

Yorck chỉ có một thời gian phục vụ ngắn ngủi trong Thế Chiến I; khi chiến tranh nổ ra nó được huy động trở lại để phục vụ cùng với tàu chị em Roon trong thành phần Đội Tuần tiễu 3. Sau cuộc bắn phá Yarmouth vào ngày 3 tháng 11 năm 1914, nó mắc phải sai lầm dẫn đường trong hải trình trên đường quay trở về Jadebusen, và đã đi vào một bãi thủy lôi phòng thủ của Đức. Con tàu bị chìm nhanh chóng và chỉ có 127 trong tổng số 629 thành viên thủy thủ đoàn được cứu sống. Xác tàu được dọn sạch trong một quãng thời gian kéo dài, bắt đầu từ năm 1929 và chỉ kết thúc vào giữa những năm 1980.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lớp tàu tuần dương _Roon**_ là lớp một lớp tàu tuần dương bọc thép gồm hai chiếc được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo vào đầu Thế kỷ 20. Hai chiếc trong lớp, _Roon_
**Lớp tàu tuần dương _Scharnhorst**_ là lớp tàu tuần dương bọc thép thông thường sau cùng được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo. Bao gồm hai chiếc _Scharnhorst_ và _Gneisenau_, chúng lớn hơn lớp
**SMS _Roon**_ là chiếc dẫn đầu của lớp tàu tuần dương bọc thép mang tên nó của Hải quân Đế quốc Đức. Con tàu được chấp thuận chế tạo theo đạo luật Hải quân thứ
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Lion**_ bao gồm hai tàu chiến-tuần dương được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Mang biệt danh "Splendid Cats", Nó đã đánh
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Indefatigable**_ là lớp tàu chiến-tuần dương thứ hai của Anh Quốc, đã phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Anh và Hải quân Hoàng gia Australia trong Chiến tranh Thế giới
**SMS _Yorck**_ là chiếc thứ hai cũng là chiếc sau cùng trong lớp tàu tuần dương bọc thép _Roon_ của Hải quân Đế quốc Đức. _Yorck_ được đặt tên theo Ludwig Yorck von Wartenburg, vị
**SMS _Prinz Adalbert**_ là một tàu tuần dương bọc thép của Hải quân Đế quốc Đức được chế tạo vào đầu những năm 1900 và được đặt tên theo Hoàng tử Adalbert của Phổ, con
**SMS _Scharnhorst**_ là một tàu tuần dương bọc thép của Hải quân Đế quốc Đức, được chế tạo tại xưởng tàu của hãng Blohm & Voss ở Hamburg, Đức. _Scharnhorst_ là chiếc dẫn đầu cho
**SMS _Prinz Heinrich**_ là một tàu tuần dương bọc thép được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo vào giai đoạn chuyển sang Thế kỷ 20, là chiếc duy nhất trong lớp của nó, được
**HMS _Lion**_ là một tàu chiến-tuần dương của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó, vốn được đặt tên lóng là những "Con mèo Tráng lệ" (Splendid Cats).
**HMS _New Zealand**_ là một trong số ba chiếc tàu chiến-tuần dương lớp _Indefatigable_ được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo để bảo vệ các lãnh thổ của Đế quốc Anh. Được hạ
**HMS _Queen Mary**_ là một tàu chiến-tuần dương được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất, là chiếc duy nhất trong lớp của nó. Thiết kế của
**Danh sách các tàu chiến của Hải quân Đế quốc Đức** bao gồm tất cả các con tàu được đưa vào phục vụ trong Hải quân Đế quốc Đức (_Kaiserliche Marine_) của Đức, bao gồm
**SMS _Helgoland**_ là một thiết giáp hạm dreadnought của Hải quân Đế quốc Đức trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm bốn chiếc. Thiết kế
**Albrecht von Stosch** (20 tháng 4 năm 1818 tại Koblenz – 29 tháng 2 năm 1896 tại Mittelheim, Rheingau, ngày nay là một quận thuộc Oestrich-Winkel) là một Thượng tướng Bộ binh và Đô đốc
**Chiến tranh Pháp – Phổ** (19 tháng 7 năm 1870 – 28 tháng 1 năm 1871), thời hậu chiến còn gọi là **chiến tranh Pháp – Đức** (do sự kiện thống nhất nước Đức ở