✨I-26 (tàu ngầm Nhật)

I-26 (tàu ngầm Nhật)

I-26 là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã tham gia cuộc tấn công Trân Châu Cảng, rồi sau đó tuần tra dọc bờ biển phía Tây Hoa Kỳ, Canada, Australia và Ấn Độ Dương, tham gia các Chiến dịch K, quần đảo Aleut và quần đảo Mariana cũng như trong trận Hải chiến vịnh Leyte. I-26 nổi bật vì đã đánh chìm tàu buôn Hoa Kỳ đầu tiên trong chiến tranh, gây hư hại cho tàu sân bay và đánh chìm tàu tuần dương hạng nhẹ . I-26 xếp thứ ba trong số các tàu ngầm Nhật Bản có thành tích cao nhất trong Thế Chiến II, khi đánh chìm 51.500 tấn tải trọng tàu đối phương. I-26 mất tích tại khu vực Leyte, Philippines, có thể bị các tàu hộ tống khu trục và đánh chìm vào ngày 26 tháng 10, 1944.

Thiết kế và chế tạo

Thiết kế

Tàu ngầm Type B được cải tiến từ phân lớp KD6 của lớp tàu ngầm Kaidai dẫn trước, và được trang bị một thủy phi cơ nhằm tăng cường khả năng trinh sát. Chúng có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn, Nó được đổi tên thành I-27 đồng thời được hạ thủy vào ngày 10 tháng 4, 1940, Tàu biển chở hành khách Hoa Kỳ đã bắt được tín hiệu SOS của Cynthia Olson từ một khoảng cách xa. Vào ngày 8 tháng 12, tàu ngầm I-19 đã bắt gặp những người sống sót của Cynthia Olson, bao gồm 33 thủy thủ và hai quân nhân, và đã cung cấp thực phẩm cho họ; nhưng sau đó không có bất kỳ tin tức nào khác về những người trên Cynthia Olson.

Đến ngày 10 tháng 12, tàu ngầm I-6 báo cáo phát hiện một lực lượng đặc nhiệm Hoa Kỳ, bao gồm một tàu sân bay lớp Lexington cùng hai tàu tuần dương, đang từ Oahu di chuyển lên hướng Đông Bắc. trở thành vụ tấn công lãnh thổ Canada đầu tiên kể từ năm 1870. Quả ngư lôi đánh trúng phòng nồi hơi của Saratoga chỉ gây ngập nước và không có tổn thất nhân mạng, nhưng gây chập điện hệ thống động cơ turbine-điện khiến nó chết đứng giữa biển. Máy bay của nó buộc phải chuyển đến sân bay Henderson và con tàu được kéo về Tongatabu, Fiji, và sau đó đến Trân Châu Cảng để sửa chữa. Trong khi đó, các tàu khu trục MacDonough và dò được tín hiệu sonar nên đã phản công I-26 bằng mìn sâu. Khi hoạt động tìm kiếm và giải cứu tiến hành tám ngày sau đó, người ta chỉ tìm thấy mười người sống sót. Chiếc tàu ngầm đã trồi lên mặt nước để bắn vào những người sống sót, nhưng không gây thêm tổn thất.

Vào ngày 29 tháng 3, I-26 phóng ngư lôi tấn công tàu Liberty vũ trang Hoa Kỳ (7.176 tấn), vốn đã rời Bombay từ ngày 27 tháng 3 để đi sang Aden với 71 người trên tàu và 3.600 tấn hàng hóa. Thủy thủ của Richard Hovey phát hiện các quả ngư lôi lúc 16 giờ 20 phút nên nó cơ động đổi hướng, né tránh được ít nhất một quả, nhưng hai quả khác đã đánh trúng khoang chở hàng và phòng động cơ. Bị hư hại đáng kể, thủy thủ của Richard Hovey bắt đầu bỏ tàu lúc 16 giờ 40 phút, nhưng các pháo thủ vẫn túc trực bên các khẩu pháo. Đến 17 giờ 00, I-26 đánh trúng thêm một quả ngư lôi, nên các pháo thủ buộc phải bỏ tàu. Ngoại trừ ba thủy thủ mất tích được xem là đã thiệt mạng, những người sống sót được đưa lên ba xuồng và hai phao cứu sinh.

I-26 trồi lên mặt nước cách Richard Hovey để tiếp tục bắn hải pháo 14-cm vào mục tiêu trong suốt 12 phút, cho đến khi chiếc Liberty bốc cháy suốt từ mũi đến đuôi tàu. Chiếc tàu ngầm sau đó chuyển sang tấn công các xuồng cứu sinh, thoạt tiên bằng pháo 14-cm nhưng không hiệu quả, nên chuyển sang pháo phòng không 25-mm, súng máy và sùng trường từ khoảng cách . I-26 sau đó húc vào một xuồng cứu sinh, khiến chiếc xuồng lật úp, trước khi ngừng bắn và yêu cầu hạm trưởng của Richard Hovey trình diện, sau đó nó cặp bên mạn xuồng cứu sinh số 4 và bắt giữ bốn người như tù binh chiến tranh, bao gồm hạm trưởng của Richard Hovey. I-26 rời khu vực kéo theo chiếc xuồng số 4, để lại hiện trường một xuồng và một bè cứu sinh, cùng với chiếc xuồng đã bị đánh lật úp. Bốn người bị I-26 bắt giữ đã sống sót qua chiến tranh và được phóng thích khi xung đột chấm dứt. Richard Hovey đắm vào một lúc nào đó trong sáng sớm ngày 30 tháng 3, tại tọa độ .

Trong số những người sống sót của Richard Hovey, có thể không có ai hoặc bốn người đã thiệt mạng khi bị I-26 xả súng tấn công. Họ lật lại được chiếc xuồng bị lật úp và trèo lên, và sau đó hai chiếc xuồng tách ra nên có số phận khác nhau. Một chiếc với 25 người được tàu Liberty Anh cứu vớt vào ngày 1 tháng 4, và đưa đến Karachi vào ngày 4 tháng 4. Một người trong số 39 người trên chiếc xuồng còn lại từ trần vào ngày 10 tháng 4, nhưng những người khác được tàu Liberty Anh cứu vớt vào ngày 14 tháng 4, và đưa đến Cochin, Ấn Độ vào ngày 16 tháng 4.

I-26 kết thúc chuyến tuần tra và quay trở về Penang vào ngày 18 hoặc 25 tháng 4. Vào ngày 20 tháng 4, I-26 được điều động vể Lực lượng Tiền phương. Nó khởi hành từ Penang vào ngày 3 tháng 5 để quay trở về Nhật Bản, và đi đến Kure, Hiroshima vào ngày 15 tháng 5, nơi nó được đại tu và sửa chữa. Đến ngày 20 tháng 6, chiếc tàu ngầm lại được phân về Đội tàu ngầm 15 trực thuộc Đệ Lục hạm đội.

Chiến dịch quần đảo Mariana

Trong khi I-26 còn đang được sửa chữa tại Nhật Bản, Chiến dịch quần đảo Mariana bắt đầu khi lực lượng Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ đổ bộ lên đảo Saipan thuộc quần đảo Mariana vào ngày 15 tháng 6. Để đối phó, I-26 đã lên đường từ Kure vào ngày 27 tháng 6 để hướng sang khu vực Saipan, mang theo một sà lan Unpoto, một kiểu bè trượt dài có khả năng chở 15 tấn hàng hóa, thường được bố trí ba khẩu lựu pháo Type 96 15 cm cùng đạn dược kèm theo. Trên đường đi nó được lệnh chuyển hướng sang Guam vào ngày 5 tháng 7, nhưng phía Hoa Kỳ đã bắt đầu bắn phá hòn đảo này từ ngày 8 tháng 7, chuẩn bị cho cuộc đổ bộ. Khi chiếc tàu ngầm đi đến Guam vào ngày 9 tháng 7, hòn đảo đã bị tàu chiến Hoa Kỳ phong tỏa. Nó bị mắc cạn nhưng thoát ra được, và xoay sở tiến vào được Apra Harbor vào chiều tối hôm đó. Sau khi chuyển giao sà lan Unpoto, nó đón lên tàu 120 phi công Nhật Bản rồi lên đường quay trở về Nhật Bản, đi đến Yokosuka vào ngày 22 tháng 7, nơi nó được sửa chữa và đại tu. Sau khi hoàn tất, chiếc tàu ngầm chuyển đến căn cứ Kure.

Chuyến tuần tra thứ chín

Vào ngày 13 tháng 10, Tổng tư lệnh mới của Hạm đội Liên hợp, Đô đốc Soemu Toyoda, ra lệnh tiến hành kế hoạch Sho-1-Go nhằm phòng thủ quần đảo Philippine, nên I-26 cùng với tàu ngầm I-45 khởi hành từ Kure cùng vào ngày hôm đó cho chuyến tuần tra thứ chín tại khu vực quần đảo Philippine. Các tàu ngầm I-26, I-45, I-53, I-54I-55 được phân về Nhóm A dưới sự chỉ huy trực tiếp của Tư lệnh Đệ Lục hạm đội, Phó đô đốc Shigeyoshi Miwa, với nhiệm vụ đánh chặn Lực lượng Đặc nhiệm 38 Hoa Kỳ.

Vào ngày 18 tháng 10, I-26 báo cáo nhiều lần phát hiện máy bay đối phương ở vị trí cách Manila . Trận Leyte bắt đầu vào ngày 20 tháng 10, khi binh lính Lục quân Hoa Kỳ đổ bộ lên đảo Leyte, Philippines. Khi trận Hải chiến vịnh Leyte bắt đầu vào ngày 24 tháng 10, I-26 được lệnh tuần tra tại khu vực phía Đông Nam vịnh Leyte, và khi trận chiến ngoài khơi Samar lên đến cao điểm trong ngày hôm sau 25 tháng 10, I-26 báo cáo trông thấy bốn tàu sân bay Hoa Kỳ ngoài khơi Leyte, sau đó nó hoàn toàn mất liên lạc với căn cứ.

Bị mất

Nguyên nhân khiến I-26 bị mất vẫn còn là một bị ẩn. Một số sử gia cho rằng chiếc tàu ngầm bị mất do tai nạn khi lặn. Những người khác tin rằng I-26 bị đánh chìm khi nó tìm cách tấn công tàu sân bay hộ tống trong đêm 25-26 tháng 10, sau trận chiến ngoài khơi Samar. Các tàu hộ tống khu trục và , trong thành phần hộ tống cho Petrof Bay, đã tấn công một mục tiêu bằng các loạt súng cối chống ngầm Hedgehog vào sáng sớm ngày 26 tháng 10, đặc biệt là bởi Richard M. Rowell, và có thể đã đánh chìm I-26 tại tọa độ .

Vào ngày 27 tháng 10, I-26 được lệnh di chuyển đến khu vực phía Đông vịnh Lamon, nhưng nó đã không hồi đáp. Khi Bộ tư lệnh Đệ Lục hạm đội ra mệnh lệnh vào ngày 7 tháng 11 triệu hồi mọi tàu ngầm tại khu vực Leyte trở về căn cứ, I-26 cũng đã không trả lời. Đến ngày 21 tháng 11, Hải quân Nhật Bản công bố I-26 có thể đã bị mất tại khu vực Leyte với tổn thất toàn bộ 105 thành viên thủy thủ đoàn. Tên nó được rút khỏi đăng bạ hải quân vào ngày 10 tháng 3, 1945.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_I-26_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_I-124_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 52_** và mang tên **_I-24_** từ năm 1927 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
**_I-15_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã
**_I-121_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 48_** và mang tên **_I-21_** từ năm 1924 đến năm 1938 là một tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu
**_I-7_** là một tàu ngầm tuần dương phân lớp bao gồm hai chiếc có khả năng mang máy bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó cùng với tàu chị em _I-8_ là những
**_I-2_** là một tàu ngầm tuần dương lớp bao gồm bốn chiếc có trọng lượng choán nước lên đến 2.135 tấn, được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến
**_I-122_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 49_** và mang tên **_I-22_** từ năm 1926 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
**_I-69_**, sau đổi tên thành **_I-169_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**_I-44_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944, nó từng thực
**_I-58_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Đang khi chế tạo, nó được cải biến
**_I-123_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 50_** và mang tên **_I-23_** từ năm 1927 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
**_I-36_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_I-372_** là một tàu ngầm vận tải thuộc lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-8_** là một tàu ngầm tuần dương phân lớp bao gồm hai chiếc có khả năng mang máy bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó cùng với tàu chị em _I-7_ là những
**_I-373_** là một tàu ngầm vận tải được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai, là chiếc duy nhất thuộc lớp Type D2 được
**_I-183_** (nguyên mang tên **_I-83_**) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1943. Nó đã hoạt động trong Chiến
**_I-14_** là một tàu ngầm lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai, thuộc phân lớp Type A Cải tiến 2 (Type AM).
**_I-29_**, tên mã _Matsu_, là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm
**_I-53_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C3 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu ngầm
**_I-6_** là một tàu ngầm tuần dương, là chiếc duy nhất thuộc phân lớp của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, và có khả năng mang máy bay. Nhập biên chế năm 1935, _I-6_ đã
**_I-5_** là chiếc tàu ngầm mang máy bay đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản và đã hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Là chiếc duy nhất trong phân lớp
**_I-19_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_I-23_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_I-65_**, sau đổi tên thành **_I-165_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai V nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1932. Nó đã phục vụ trong
**_I-56_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944, nó hoạt động
**_I-370_** là một tàu ngầm vận tải thuộc lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-10_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_I-71_**, sau đổi tên thành **_I-171_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**_I-177_** (nguyên là **_tàu ngầm số 155_**, rồi **_I-77_** cho đến ngày 20 tháng 5, 1942) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc
**_I-64_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai IV nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1930. Nó đã phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_I-75_**, sau đổi tên thành **_I-175_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**_I-18_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã
**_I-56_**, sau đổi tên thành **_I-156_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIB nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1929. Trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_I-368_** là một tàu ngầm vận tải thuộc lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-45_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó hoạt động
**_I-3_** là một tàu ngầm tuần dương lớp bao gồm bốn chiếc có trọng lượng choán nước lên đến 2.135 tấn, được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến
**_I-54_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944, nó hoạt động
**_I-47_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C2 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-66_**, sau đổi tên thành **_I-166_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai V nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1932. Nó đã phục vụ trong
**_I-184_** (nguyên mang tên **_I-84_**) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1943. Nó đã hoạt động trong Chiến
**_I-371_** là một tàu ngầm vận tải thuộc lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-48_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C2 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-4_** là một tàu ngầm tuần dương lớp bao gồm bốn chiếc có trọng lượng choán nước lên đến 2.135 tấn, được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến
**_I-32_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_I-38_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó đã từng tham
**_I-363_** là một tàu ngầm vận tải thuộc lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-361_** là một tàu ngầm vận tải, chiếc dẫn đầu của lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên
**_I-16_** là một tàu ngầm tuần dương, là chiếc dẫn đầu của lớp Type C được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế
**_I-70_** là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn,
**_I-39_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó đã từng hoạt