✨I-177 (tàu ngầm Nhật)

I-177 (tàu ngầm Nhật)

I-177 (nguyên là tàu ngầm số 155, rồi I-77 cho đến ngày 20 tháng 5, 1942) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào cuối năm 1942. Nó đã hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, tuần tra tại Australia, hoạt động tại vùng biển Bắc Thái Bình Dương và tham gia các chiến dịch New Guinea, quần đảo Mariana và Palau trước khi bị tàu hộ tống khu trục đánh chìm tại khu vực Palau vào ngày 3 tháng 10, 1944 với tổn thất nhân mạng toàn bộ.

Thiết kế và chế tạo

Thiết kế

Phân lớp tàu ngầm Kaidai VII là phiên bản tàu ngầm tấn công tầm trung được phát triển dựa trên phân lớp Kaidai VI. Chúng có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn, lườn tàu có chiều dài , mạn tàu rộng và mớn nước sâu . Con tàu có thể lặn sâu và có một thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 86 sĩ quan và thủy thủ.

Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn, mỗi trục được vận hành bởi một động cơ điện .Con tàu có thể đạt tốc độ tối đa khi nổi

Lớp Kaidai VII có sáu ống phóng ngư lôi , tất cả đều được bố trí trước mũi, và mang tổng cộng 12 ngư lôi. Vũ khi trên boong tàu thoạt tiên dự định bao gồm hai khẩu pháo phòng không Kiểu 96 nòng đôi, nhưng sau đó một hải pháo chống hạm thay chỗ cho một khẩu đội 25mm.

Chế tạo

Được đặt hàng trong khuôn khổ Chương trình Vũ trang Hải quân Bổ sung thứ tư năm 1939, nhưng nó chỉ được đặt lườn như Tàu ngầm số 155 tại xưởng tàu của hãng Kawasaki ở Kobe vào ngày 10 tháng 3, 1941. Nó được đổi tên thành I-77 và phối thuộc cùng Quân khu Hải quân Sasebo vào ngày 17 tháng 12, 1941, và được tàu khu trục Hoa Kỳ cứu vớt lúc 14 giờ 00 ngày 15 tháng 5. I-177 bắt đầu chuyến đi tiếp liệu thứ ba từ ngày 1 tháng 9, khi nó cùng tàu ngầm Ro-106 rời Rabaul hướng đến Lae. Đến nơi vào ngày 3 tháng 9, nó chất dỡ hàng hóa rồi lên đường ngay sau đó để quay trở lại Rabaul, đến nơi vào ngày 5 tháng 9.

Khởi hành từ Rabaul vào ngày 10 tháng 9, I-177 thực hiện chuyến đi tiếp liệu thứ tư sang Lae, vốn bị đe dọa bởi cuộc đổ bộ lên bán đảo Huon của Sư đoàn 9 Quân đội Australia vốn đã bắt đầu từ ngày 4 tháng 9, khi Chiến dịch Salamaua–Lae sắp kết thúc. Vào ngày 13 tháng 9, chiếc tàu ngầm được lệnh chuyển hướng để tấn công lực lượng Đồng Minh đang đổ bộ lên Finschhafen, New Guinea, nhưng nó không tìm thấy mục tiêu nào tại đây, nên tiếp tục hành trình hướng sang Lae. Khi đến nơi vào ngày 14 tháng 9, nó bị lực lượng Đồng Minh tấn công, và sau khi chất dỡ hàng tiếp liệu nó trở ra khơi cho chặng quay trở về. Chiều tối hôm đó, trong khi di chuyển trên mặt nước, I-177 nghe thấy tiếng chân vịt của nhiều tàu khu trục Hoa Kỳ ở khoảng cách gần. Cho rằng đã bị tàu khu trục đối phương phát hiện qua radar, I-177 lặn xuống đến độ sâu thử nghiệm và chờ đợi những quả mìn sâu, nhưng nó đã không bị tấn công. Trong giai đoạn này, Đội tàu ngầm 22 được giải thể vào ngày 15 tháng 9, và con tàu phối thuộc trực tiếp cùng Đệ Lục hạm đội. Nó về đến Rabaul vào ngày 17 tháng 9.

Vào ngày 19 tháng 9, I-177 rời cảng Simpson Harbour, Rabaul để lặn sâu thử nghiệm, rồi quay về cảng cùng ngày hôm đó. Hai ngày sau đó, nó rời Rabaul cho một chuyến đi tiếp liệu đến Finschhafen. Trên đường đi vào ngày 22 tháng 9, nó được lệnh tấn công lực lượng Đồng Minh tại khu vực Finschhafen, nên thủy thủ đã vứt bỏ hàng tiếp liệu trên boong xuống biển, và con tàu hướng đến khu vực đổ bộ, nơi nó trinh sát vào ngày 23 tháng 9. Nó đã không tấn công mục tiêu nào, tiếp tục đi đến Finschhafen, và chất dỡ số hàng tiếp liệu còn lại vào ngày 24 tháng 9 giữa các đợt không kích của đối phương. Chiếc tàu ngầm quay lại trinh sát khu vực đổ bộ một lần nữa vào ngày 25 tháng 9, bắt gặp nhiều tàu Đồng Minh nhưng không thể tấn công, và quay trở về Rabaul vào ngày 26 tháng 9.

I-177 khởi hành từ Rabaul vào ngày 2 tháng 10 cho chuyến đi vận chuyển tiếp liệu đầu tiên đến Sio, New Guinea. Nó đến nơi vào ngày 4 tháng 10, và sau khi chất dỡ hàng hóa đã lên đường quay trở lại Rabaul, đến nơi vào ngày 6 tháng 10. Chuyến thứ hai xuất phát từ Rabaul vào ngày 8 tháng 10, chất dỡ hàng tiếp liệu tại Sio trong ngày 10 tháng 10, và quay trở lại Rabaul vào ngày 12 tháng 10. Đúng ngày hôm đó, Không lực 5 Không lực Hoa Kỳ tiến hành ném bom Rabaul, vào lúc đó là đợt không kích lớn nhất tại Thái Bình Dương trong Thế Chiến II, với 349 máy bay tham gia tấn công các sân bay và cảng Simpson Harbour. I-177 neo đậu tại vùng biển sâu và đã lặn xuống ẩn nấp, nên đã không bị hư hại.

Trong tháng 10 và tháng 11, I-177 tiếp tục thực hiện các chuyến đi tiếp liệu từ Rabaul đến Sio. Nó rời Rabaul vào ngày 19 tháng 10, đi đến Sio vào ngày 21 tháng 10, và quay trở về Rabaul vào ngày 23 tháng 10. Chuyến tiếp theo xuất phát từ Rabaul vào ngày 26 tháng 10, đi đến Sio vào ngày 28 tháng 10, và quay trở về Rabaul vào ngày 30 tháng 10. Nó lại rời Rabaul vào ngày 2 tháng 11, đi đến Sio vào ngày 4 tháng 11, và quay trở về Rabaul vào ngày 6 tháng 11. Nó xuất phát từ Rabaul vào ngày 9 tháng 11, đi đến Sio vào ngày 11 tháng 11, và quay trở về Rabaul vào ngày 13 tháng 11. Đến ngày 20 tháng 11, nó cùng tàu ngầm Ro-108 rời Rabaul cho chuyến đi tiếp liệu đến Sio, đến nơi vào ngày 22 tháng 11, và quay trở về Rabaul vào ngày 24 tháng 11.

Ngay sau khi diễn ra Trận chiến mũi St. George trong đêm 24-25 tháng 11 tại vùng biển giữa đảo Buka và mũi St. George thuộc đảo New Ireland, I-177 xuất phát từ Rabaul vào ngày 25 tháng 11 để tìm kiếm những người sống sót từ tàu khu trục Yūgiri; nó đã cứu vớt 279 người, và tàu ngầm I-181 đã cứu thêm 11 người. Khi I-177 trên đường quay trở về Rabaul, nó bị một máy bay ném bom-tuần tra Lockheed PV-1 Ventura thuộc Liên đội Tuần tra VP-138 Hải quân Hoa Kỳ tấn công ngoài khơi mũi St. George vào ngày 26 tháng 11, nhưng chiếc tàu ngầm thoát được mà không chịu hư hại. Về đến Rabaul cùng ngày hôm đó, con tàu được tiếp liệu rồi trở ra khơi ngay; nó quay trở về Rabaul vào ngày 29 tháng 11.

Tại Rabaul vào ngày 30 tháng 11, I-177 tiếp nhận hàng tiếp liệu để vận chuyển sang New Guinea, rồi lên đường vào ngày 3 tháng 12, ghé đến Sio vào ngày 5 tháng 12, và quay trở về Rabaul vào ngày 7 tháng 12. Chuyến tiếp theo xuất phát từ Rabaul vào ngày 12 tháng 12, ghé đến Sio vào ngày 14 tháng 12, và quay trở về Rabaul vào ngày 15 tháng 12. Một lần nữa nó rời Rabaul vào ngày 16 tháng 12, ghé đến Sio vào ngày 17 tháng 12, rồi thực hiện một chuyến tuần tra ngắn phía Nam vịnh Marcus tại bờ biển New Britain từ ngày 18 đến ngày 20 tháng 12 trước khi quay trở về Rabaul vào ngày 21 tháng 12.

Sau khi rời Rabaul vào ngày 23 tháng 12 để chuyển hàng tiếp liệu đến Sio vào ngày 25 tháng 12, I-177 phát hiện nhiều tàu đổ bộ Đồng Minh, nhưng không thể tấn công. Nó quay trở lại Rabaul vào ngày 27 tháng 12, rồi lại lên đường vào ngày hôm sau cho chuyến đi tiếp liệu đầu tiên và duy nhất đến Garove thuộc quần đảo Vitu, đến nơi vào ngày 30 tháng 12. Chiếc tàu ngầm quay trở về Rabaul vào ngày 1 tháng 1, 1944.

1944

Vào ngày 3 tháng 1, 1944, I-177 rời Rabaul cho chuyến đi tiếp liệu thứ 12 đến Sio. Trên đường đi, nó được điều động sang Hải đội Tàu ngầm 1 vào ngày 5 tháng 1. Đi đến Sio vào chiều tối ngày 8 tháng 1, nó bắt liên lạc với lực lượng Nhật Bản đồn trú trên bờ. Một xuồng đổ bộ Daihatsu bắt đầu chất dỡ hàng tiếp liệu từ I-177, trong khi một xuồng khác xuất phát từ bờ đưa tướng Hatazō Adachi, Tư lệnh Tập đoàn quân 18, Chuẩn đô đốc Kyuhachi Kudo, Tư lệnh Đơn vị Căn cứ 7, cùng mười sĩ quan tham mưu của họ, để chuyển lên I-177. Đúng lúc đó, xuồng tuần tra phóng lôi PT-146 phát hiện I-177 qua radar ở khoảng cách nên cùng chiếc PT-143 tiếp cận để tấn công. Trinh sát viên của I-177 phát hiện đối thủ kịp thời, nên chiếc tàu ngầm phải lặn xuống, còn chiếc xuồng đưa tướng Adachi và những người cùng đi buộc phải quay trở lại bờ. Hai chiếc PT boat tiếp tục tìm kiếm trong khu vực, phát hiện qua radar từ khoảng cách và nhìn thấy kính tiềm vọng I-177 qua radar ở khoảng cách . Mỗi chiếc PT boat đã thả hai quả mìn sâu tấn công, nhưng I-177 thoát được mà không bị hư hại.

I-177 quay trở lại ngoài khơi Sio vào chiều tối ngày 9 tháng 1, nhưng lại đụng độ với xuồng PT boat Hoa Kỳ trong khu vực, nên thông báo cho lực lượng tại New Guinea rằng nó sẽ quay lại vào chiều tối ngày 10 tháng 1, và yêu cầu hỗ trợ đánh đuổi xuồng PT boat đối phương. Khi nó trồi lên mặt nước ngoài khơi Sio vào ngày 10 tháng 1, các chiếc PT-320PT-323 đã tiếp cận nó. Tuy nhiên các xuồng Daihatsu và sà lan bọc thép vũ trang đã phối hợp cùng I-177 đánh đuổi đối phương. Sau khi đón Adachi, Kudo cùng các sĩ quan tham mưu lên tàu, nó rời Sio lần sau cùng để hướng đến Madang, New Guinea, nơi các hành khách rời tàu lúc 12 giờ 00 ngày 11 tháng 1. Chiếc tàu ngầm quay trở về Rabaul vào ngày 15 tháng 1.

I-177 về đến Rabaul vài ngày sau khi Hải quân Nhật Bản quyết định bỏ căn cứ tàu ngầm tại đây. Sau một chặng dừng ngắn, nó lại lên đường vào ngày 15 tháng 1, rời Rabaul lần cuối cùng, ghé đến Truk từ ngày 18 đến ngày 20 tháng 1. Chiếc tàu ngầm tiếp tục hành trình quay trở về Nhật Bản, về đến Sasebo vào ngày 27 tháng 1, nơi nó được sửa chữa.

Bắc Thái Bình Dương

Vào ngày 25 tháng 2, I-177 được điều động sang Hạm đội Khu vực Đông Bắc để hoạt động tại vùng biển Bắc Thái Bình Dương. Sau khi hoàn tất sửa chữa, nó rời Sasebo vào ngày 22 tháng 3 để hướng lên phía Bắc, đi đến căn cứ Ōminato vào ngày 25 tháng 3. Nó khởi hành từ Ōminato vào ngày 11 tháng 4 để hoạt động tại vùng biển quần đảo Aleut, rồi quay trở lại vào ngày 27 tháng 5. Nó lại khởi hành từ Ōminato vào ngày 8 tháng 6 để thực hiện chuyến tuần tra tại vùng biển Bắc Thái Bình Dương về phía Đông quần đảo Kiril. Không bắt gặp mục tiêu nào đáng kể, nó quay trở về, dừng qua đêm 22-23 tháng 6 tại Ōminato trước khi tiếp tục hành trình, về đến Yokosuka vào ngày 25 tháng 6, nơi nó được sửa chữa. Trong thời gian này Đội tàu ngầm 22 được giải thể vào ngày 10 tháng 8, và con tàu được điều về Đội tàu ngầm 34.

Chiến dịch quần đảo Palau

Sau khi lực lượng Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ đổ bộ lên Peleliu vào ngày 15 tháng 9, và Lục quân đổ bộ lên Angaur hai ngày sau đó, I-177 rời Kure vào ngày 19 tháng 9 với Tư lệnh Đội tàu ngầm 34 trên tàu cho chuyến tuần tra ngoài khơi Palau, Halmahera tại Đông Ấn thuộc Hà Lan, và Mindanao tại Philippines. Khi nó đi đến khu vực tuần tra được chỉ định ngoài khơi Palau vào ngày 24 tháng 9, I-177 được lệnh trinh sát đảo san hô Ulithi thuộc quần đảo Caroline.

Bị mất

I-177 hoàn tất chuyến trinh sát Ulithi và đang di chuyển trên mặt nước để quay trở lại khu vực tuần tra ngoài khơi Palau, khi nó bị một thủy phi cơ tuần tra PBM Mariner thuộc Liên đội Tuần tra Ném bom VPB-16 Hải quân Hoa Kỳ phát hiện qua radar vào chiều tối ngày 1 tháng 10. I-177 lặn khẩn cấp né tránh khi chiếc máy bay tuần tra tiếp cận, và chiếc PBM Mariner đã thả một quả ngư lôi Mark 24 FIDO dò âm tấn công, gây hư hại nặng cho I-177. Sau đó chiếc PBM Mariner thông báo vị trí chiếc tàu ngầm đối phương cho một đội tìm-diệt tàu ngầm hoạt động gần đó, được hình thành chung quanh tàu sân bay hộ tống .

Hoggatt Bay đang ở một vị trí về phía Đông Bắc Angaur lúc 03 giờ 11 phút ngày 3 tháng 10, khi nó phát hiện I-177 qua radar ở khoảng cách . Tàu hộ tống khu trục được cho tách khỏi thành phần hộ tống của Hoggatt Bay để trinh sát mục tiêu. Đến 04 giờ 40, nó phát hiện I-177 di chuyển trên mặt nước nên bẻ lái để tiếp cận. I-177 lặn khẩn cấp để né tránh, nhưng Samuel S. Miles dò được tín hiệu sonar của chiếc tàu ngầm, nên bắn một loạt 24 quả đạn súng cối chống ngầm Hedgehog để tấn công. Sau loạt Hedgehog thứ hai, I-177 bị đánh chìm tại tọa độ với tổn thất nhân mạng toàn bộ 101 người trên tàu, ở vị trí khoảng cách nơi nó bị chiếc PBM Mariner tấn công.

Vào ngày 4 tháng 10, Bộ chỉ huy Nhật Bản ra lệnh cho I-177 quay trở về căn cứ sau khi hoàn tất việc trinh sát đảo san hô Ulithi, nhưng chiếc tàu ngầm đã không hồi đáp. Đến ngày 18 tháng 11, Hải quân Nhật Bản công bố I-177 đã bị mất tại khu vực Palau với tổn thất toàn bộ thủy thủ đoàn. Tên nó được cho rút khỏi đăng bạ hải quân vào ngày 1 tháng 3, 1945.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_I-177_** (nguyên là **_tàu ngầm số 155_**, rồi **_I-77_** cho đến ngày 20 tháng 5, 1942) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc
**_I-185_** (nguyên mang tên **_I-85_**) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1943. Nó đã hoạt động trong Chiến
Đây là danh sách các tàu chiến thuộc Đế quốc Nhật Bản. ## Tàu chiến trung cổ * Atakebune, Tàu chiến cận bờ thế kỉ 16. * Châu Ấn Thuyền – Khoảng 350 tàu buồm
**Tàu khu trục lớp Kongō** (tiếng Nhật: こんごう型護衛艦) là lớp tàu khu trục mang tên lửa có điều khiển (DDG) đầu tiên của Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF) được chế tạo
**_Kongō_** (tiếng Nhật: 金剛, Kim Cương) là chiếc tàu chiến-tuần dương đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc kiểu siêu-Dreadnought, là chiếc dẫn đầu của lớp Kongō bao gồm những chiếc _Hiei_,
**_Yūgiri_** (tiếng Nhật: 夕霧) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn chiếc, được chế tạo sau khi Chiến tranh Thế
**USS _Helm_ (DD-388)** là một tàu khu trục lớp _Bagley_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được
**USS _Edsall_ (DD-219)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và đã tiếp tục phục vụ vào đầu Chiến tranh
Chiếc **Douglas B-18 Bolo** là một máy bay ném bom của Không lực Lục quân Hoa Kỳ và Không quân Hoàng gia Canada vào cuối những năm 1930 và đầu những năm 1940. Chiếc **Bolo**
**USS _Hoggatt Bay_ (CVE-75)** là một tàu sân bay hộ tống lớp _Casablanca_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã hoạt động cho đến hết Thế
**_Kỵ sĩ bóng đêm_** (tựa gốc tiếng Anh: **_The Dark Knight_**) là một bộ phim điện ảnh AnhMỹ thuộc thể loại siêu anh hùng ra mắt vào năm 2008 do Christopher Nolan làm đạo diễn,
**Chiến dịch phòng ngự chiến lược Leningrad** là tổ hợp các hoạt động quân sự của quân đội Liên Xô chống lại các cuộc tấn công của quân đội Đức Quốc xã tại khu vực
**Công nghệ** đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định kết quả của chiến tranh thế giới thứ II. Phần lớn của nó đã được phát triển trong những năm giữa cuộc chiến
**Hạm đội Biển Đen** () là một đơn vị thuộc Hải quân Nga hoạt động ở Biển Đen và Địa Trung Hải kể từ thế kỷ 18. Hạm đội này đóng ở nhiều bến cảng
**Washington, D.C.**, tên chính thức là **Đặc khu Columbia** (), còn được gọi là **Washington** hoặc **D.C.**, là thủ đô và là đặc khu liên bang duy nhất của Hoa Kỳ. Nó tọa lạc trên
nhỏ|400x400px| [[Hoa Kỳ|Dự trữ vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ và Liên Xô / Nga ]] **Chạy đua vũ trang hạt nhân / chạy đua hạt nhân** là cuộc cạnh tranh chạy đua vũ
là một trận động đất mạnh 9,0 MW ngoài khơi Nhật Bản xảy ra lúc 05:46 UTC (14:46 giờ địa phương) vào ngày 11 tháng 3 năm 2011. Trận động đất có vị trí chấn
**Junkers Ju 88** là một loại máy bay được sản xuất bởi Tập đoàn Junkers và xuất xưởng lần đầu tiên vào giữa năm 1930. Junkers Ju 88 được Luftwaffe sử dụng trong Thế chiến
**Boeing B-52 Stratofortress** () là máy bay ném bom hạng nặng phản lực được Không quân Hoa Kỳ (USAF) sử dụng từ năm Hàng không năm 1955, thay thế cho các kiểu Convair B-36 và
**Trận Stalingrad** (23 tháng 8 năm 19422 tháng 2 năm 1943) là một trận đánh lớn diễn ra trong Chiến tranh Xô-Đức giữa Đức Quốc xã cùng với các nước thuộc địa và Hồng quân
**_Call Me by Your Name_** (tạm dịch: _Gọi em bằng tên anh_) là một bộ phim điện ảnh thuộc thể loại tình cảmchính kịchtuổi mới lớn ra mắt vào năm 2017 do Luca Guadagnino đạo
là bộ truyện tranh lúc đầu được đọc trực tuyến trên Internet (Webcomic), sau đó đã chuyển thành manga và anime. Tác giả bộ truyện là . Nó còn được viết tắt là **Hetalia** hay
**M4 Sherman,** tên chính thức là **Xe tăng hạng trung M4** (Medium Tank M4), là loại xe tăng hạng trung được quân đội Hoa Kỳ và các nước Đồng minh Tây Âu sử dụng rộng
**Luân Đôn** (; ) là thủ đô kiêm thành phố lớn nhất của Anh (England) và của cả Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland (UK). Luân Đôn được người La Mã lập ra
**North American Aviation P-51 Mustang** là một máy bay tiêm kích một chỗ ngồi tầm xa của Hoa Kỳ được sử dụng trong Chiến tranh thế giới thứ hai và Chiến tranh Triều Tiên. Chiếc
**Tam Sa** (, âm Hán Việt: Tam Sa thị) là một thành phố được Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thành lập vào ngày 24 tháng 7 năm 2012 để quản lý một khu vực
**Haifa** (, _Hefa_; , _Ḥayfā_) là thành phố lớn nhất miền Bắc Israel, lớn thứ năm trên toàn quốc với dân số hơn 265.000 người và 300.000 người sống tại các tỉnh lân cận, trong
**Chiến tranh cục bộ** là một chiến lược quân sự của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam (giai đoạn 1965-1968). Nội dung cơ bản của chiến lược này là tận dụng ưu thế hỏa
thumb|KORAIL KTX-I thumb|KORAIL KTX-Sancheon 110000 series thumb|KORAIL KTX-Sancheon 120000 series thumb|KORAIL ITX-Saemaeul thumb|KORAIL ITX-Cheongchun thumb|KORAIL Saemaeul-ho thumb|KORAIL Mugunghwa-ho thumb|KORAIL Mugunghwa-ho DMU (RDC) thumb|KORAIL Nuriro thumb|KORAIL 311000 series EMU thumb|KORAIL Commuter train DMU (CDC) **Tổng công
**Lào Cai** trước đây là một thành phố biên giới phía bắc và là tỉnh lỵ của tỉnh Lào Cai, Việt Nam. Từ 01/07/2025, thành phố chính thức kết thúc hoạt động và được tổ
**Yemen** (; ), quốc hiệu là **Cộng hòa Yemen** () là một quốc gia nằm ở Tây Á, tọa lạc ở phía nam bán đảo Ả Rập. Yemen là quốc gia lớn thứ hai trên
**Tupolev Tu-160**, biệt danh "Thiên Nga Trắng" là một máy bay ném bom chiến lược hạng nặng, siêu thanh với thiết kế cánh cụp-cánh xòe, được thiết kế bởi Liên bang Xô viết. Nó là
**Hy Lạp**, quốc hiệu là **Cộng hòa Hy Lạp**, là một quốc gia nằm ở phía nam bán đảo Balkan, giáp với Albania, Bắc Macedonia và Bulgaria về phía bắc, Thổ Nhĩ Kỳ và biển