I-10 là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã tham gia vào cuộc tấn công Trân Châu Cảng, hỗ trợ cho hoạt động của tàu ngầm bỏ túi trong Ấn Độ Dương, tuần tra các khu vực New Caledonia và New Zealand, cũng như tham gia các Chiến dịch Guadalcanal và quần đảo Mariana trước khi bị tàu khu trục đánh chìm gần Saipan vào ngày 4 tháng 7, 1944.
Thiết kế và chế tạo
Thiết kế
Tàu ngầm Type A1 là một phiên bản của lớp Junsen 3 (J3) dẫn trước, với tầm xa hoạt động vượt trội, thiết bị hỗ trợ máy bay được cải tiến, và được trang bị để hoạt động như soái hạm của hải đội tàu ngầm. Chúng có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn, Sau khi đổi tên thành I-10, nó được hạ thủy vào ngày 20 tháng 9 Do đó Phó đô đốc Mitsumi Shimizu, tư lệnh Đệ Lục hạm đội, điều động I-10 cùng với I-9, I-15, I-17, I-19, I-21, I-23, I-25 và I-26, mỗi chiếc sẽ bắn 30 quả đạn pháo xuống các mục tiêu dọc bờ Tây vào chiều tối ngày 25 tháng 12, dưới sự chỉ huy chung của Chuẩn đô đốc Tsutomu Sato bên trên I-9. Đến ngày 27 tháng 12, Chuẩn đô đốc Sato hủy bỏ kế hoạch bắn phá vì hầu hết các tàu ngầm tham gia bị thiếu hụt nhiên liệu; vì vậy I-10 kết thúc chuyến tuần tra và về đến Kwajalein thuộc quần đảo Marshall vào ngày 11 tháng 1, 1942. Đội tàu ngầm 1 thuộc Hải đội Tàu ngầm 8 được rút từ Kwajalein về Nhật Bản, để hình thành nên Lực lượng "A" từ ngày 16 tháng 4, bao gồm các tàu ngầm I-10, I-16, I-18, I-20 và I-30, cùng với tàu ngầm bỏ túi và các tàu tuần dương phụ trợ Aikoku Maru và Hōkoku Maru, vốn sẽ hoạt động như các tàu tiếp liệu tàu ngầm. Bộ tư lệnh Đệ Lục hạm đội đã ra lệnh cho Lực lượng "A" chuyển hướng sang phía Đông Bắc, băng qua phía Bắc quần đảo Bonin để đánh chặn lực lượng đặc nhiệm Hoa Kỳ vốn đã tung ra đợt tấn công. Họ không tìm thấy đối phương, nên quay trở lại để tiếp tục hành trình. I-10 dừng qua đêm 23-24 tháng 4 tại Singapore trước khi đi đến Penang. Trên đường đi, tàu vận tải Lục quân Urajio Maru đã bắn nhầm vào I-10, nhưng chiếc tàu ngầm không bị hư hại và đến được Penang an toàn vào ngày 25 tháng 4.
I-10 đi đến Kure vào ngày 26 tháng 5, rồi cùng I-8 và tàu tiếp liệu tàu ngầm Hie Maru xuất phát từ Kure vào ngày 1 tháng 6. I-10 đã tìm kiếm tại vùng biển phía Đông đảo Dublon nhưng không có kết quả.
Chuyến tuần tra thứ sáu
I-10 khởi hành từ Truk vào ngày 25 tháng 2 cho chuyến tuần tra thứ sáu, dự định sẽ hoạt động ngoài khơi vùng bờ Tây Hoa Kỳ. Tuy nhiên vào ngày 4 tháng 3, chiếc tàu ngầm bị hư hại sau một đợt tấn công bằng mìn sâu của đối phương tại Thái Bình Dương về phía Đông đảo san hô vòng Mili, nên buộc phải hủy bỏ chuyến tuần tra. Nó về đến Yokosuka vào ngày 20 tháng 3 để được sửa chữa. Cùng trong thời gian này con tàu có thể đã được trang bị máy dò radar E27 Type 3 và sonar Type 3.
Chuyến tuần tra thứ bảy
Sau khi hoàn tất việc sửa chữa, I-10 rời Yokosuka vào ngày 4 tháng 5 với một thủy phi cơ Yokosuka E14Y1 trên tàu để bắt đầu chuyến tuần tra thứ bảy tại Thái Bình Dương về phía Đông quần đảo Marshall. Lúc chiều tối ngày 12 tháng 6, chiếc thủy phi cơ của nó đã trinh sát trên không khu vực neo đậu tại Majuro, nhưng lực lượng viễn chinh Hoa Kỳ đã rời đảo san hô này sáu ngày trước đó, nên chiếc E14Y1 đã không phát hiện được tàu bè nào tại đây. Khi quay trở lại cùng I-10, chiếc thủy phi cơ bị lật úp và bị mất, nhưng đội bay được chiếc tàu ngầm giải cứu.
Vào ngày 13 tháng 6, Đô đốc Toyoda Soemu, Tổng tư lệnh Hạm đội Liên hợp, ra lệnh tiến hành Chiến dịch A-Go để phòng thủ quần đảo Mariana, và chỉ thị cho Phó đô đốc Takagi Takeo, Tư lệnh Đệ Lục hạm đội đặt căn cứ tại Saipan, bố trí toàn bộ tàu ngầm dưới quyền về hướng quần đảo Mariana. Vì vậy 18 tàu ngầm, bao gồm I-10, được phái tuần tra tại khu vực này. Chiến dịch quần đảo Mariana bắt đầu vào ngày 15 tháng 6 khi lực lượng Hoa Kỳ tiến hành đổ bộ lên Saipan, khiến thông tin liên lạc với đô đốc Takagi tại Saipan bị gián đoạn. Vì vậy việc chỉ huy các tàu ngầm tạm thời được chuyển cho Chuẩn đô đốc Owada Noboru, Tư lệnh Hải đội Tàu ngầm 7, và ông ra lệnh rút lui tất cả các tàu ngầm ngoại trừ sáu chiếc khỏi khu vực Mariana. I-10 nằm trong số sáu chiếc được giữ lại khu vực này.
Đến ngày 24 tháng 6, Hạm đội Liên hợp chỉ thị cho đô đốc Owada tìm cách di tản đô đốc Takagi cùng ban tham mưu Đệ Lục hạm đội khỏi Saipan; I-10 lúc đó đang hoạt động về phía Đông Saipan, nên được đô đốc Owada giao nhiệm vụ này. Lúc 12 giờ 00 (giờ Nhật Bản) ngày 28 tháng 6, chiếc tàu ngầm báo cáo đang ở vị trí về phía Đông Bắc Saipan, và không thể vượt qua hàng rào tàu chiến Hoa Kỳ đang phong tỏa Saipan để tiếp xúc với đô đốc Takagi và ban tham mưu. Sau đó I-10 hoàn toàn mất liên lạc, và đến ngày 2 tháng 7, Hải quân Nhật Bản công bố I-10 có thể đã bị mất ngoài khơi Saipan với tổn thất nhân mạng toàn bộ 103 thành viên thủy thủ đoàn.
Bị mất
Thực ra I-10 chưa bị mất vào ngày 2 tháng 7, nhưng nó cũng không sống sót lâu hơn bao nhiêu. Lúc 17 giờ 02 phút ngày 4 tháng 7, Đội đặc nhiệm 50.17 Hải quân Hoa Kỳ với tàu sân bay hộ tống đang được tiếp nhiên liệu ở vị trí về phía Đông Bắc Saipan, khi tàu hộ tống khu trục dò được qua sonar một tàu ngầm đang đi ngầm ở phương vị 250 độ, khoảng cách . Trong khi đội đặc nhiệm bẻ lái sang mạn trái để né tránh, Riddle thả năm quả mìn sâu tấn công mục tiêu. Chiếc tàu ngầm di chuyển vào giữa làn sóng các con tàu đang rút lui, khiến Riddle mất dấu mục tiêu trong 18 phút. Khi bắt gặp lại mục tiêu qua sonar ở khoảng cách , Riddle bắn ba loạt súng cối chống ngầm Hedgehog tấn công, nhưng đối thủ lặn sâu hơn và cơ động đổi hướng nên né tránh được. Đến 18 giờ 12, Riddle thả thêm một lượt mìn sâu khác, nhưng vẫn không đem lại kết quả.
Sau khi được Riddle chuyển tiếp thông tin về khoảng cách, phương vị và hướng đi của mục tiêu, tàu khu trục dò được mục tiêu qua sonar lúc 18 giờ 22 phút. Nó thả 11 quả mìn sâu được cài đặt để kích nổ ở độ sâu trung bình. Riddle chuẩn bị tung ra một lượt tấn công khác khi nó nghe thấy một tiếng nổ lớn dưới nước ngay trước mặt nó lúc 18 giờ 26 phút, và không còn tín hiệu của mục tiêu. Đến chiều tối, nhiều mảnh vỡ và dầu diesel trồi lên mặt biển tại tọa độ , xác nhận I-10 đã bị đánh chìm. Vệt dầu loang lan rộng sang ngày hôm sau đến từ vị trí bị đánh chìm.
Hải quân Nhật Bản rút tên I-10 khỏi đăng bạ hải quân vào ngày 10 tháng 10, 1944.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_I-10_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_I-124_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 52_** và mang tên **_I-24_** từ năm 1927 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
**_I-15_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã
**_I-122_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 49_** và mang tên **_I-22_** từ năm 1926 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
**_I-7_** là một tàu ngầm tuần dương phân lớp bao gồm hai chiếc có khả năng mang máy bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó cùng với tàu chị em _I-8_ là những
**_I-121_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 48_** và mang tên **_I-21_** từ năm 1924 đến năm 1938 là một tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu
**_I-26_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_I-35_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_I-69_**, sau đổi tên thành **_I-169_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**_I-2_** là một tàu ngầm tuần dương lớp bao gồm bốn chiếc có trọng lượng choán nước lên đến 2.135 tấn, được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến
**_I-75_**, sau đổi tên thành **_I-175_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**_I-12_** là một tàu ngầm lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai, thuộc phân lớp Type A Cải tiến 1 (Type A2). Nhập
**_I-36_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_I-44_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944, nó từng thực
**_I-183_** (nguyên mang tên **_I-83_**) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1943. Nó đã hoạt động trong Chiến
**_I-185_** (nguyên mang tên **_I-85_**) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1943. Nó đã hoạt động trong Chiến
**_I-68_**, sau đổi tên thành **_I-168_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**_I-176_** (nguyên là **_tàu ngầm số 154_**, rồi **_I-76_** cho đến ngày 20 tháng 5, 1942) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc
**_I-58_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Đang khi chế tạo, nó được cải biến
**_I-20_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã
**_I-364_** là một tàu ngầm vận tải thuộc lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-365_** là một tàu ngầm vận tải thuộc lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-8_** là một tàu ngầm tuần dương phân lớp bao gồm hai chiếc có khả năng mang máy bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó cùng với tàu chị em _I-7_ là những
**_I-373_** là một tàu ngầm vận tải được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai, là chiếc duy nhất thuộc lớp Type D2 được
**_I-30_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_I-33_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_I-182_** (nguyên mang tên **_I-82_**) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1943. Nó đã hoạt động trong Chiến
**_I-13_** là một tàu ngầm lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai, thuộc phân lớp Type A Cải tiến 2 (Type AM). Được
**_I-123_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 50_** và mang tên **_I-23_** từ năm 1927 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã tham
**_I-60_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIB nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1928. Nó liên can đến tai nạn va chạm vốn đã làm
**_I-372_** là một tàu ngầm vận tải thuộc lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-52_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C3 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu ngầm
**_I-367_** là một tàu ngầm vận tải thuộc lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-366_** là một tàu ngầm vận tải thuộc lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-14_** là một tàu ngầm lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai, thuộc phân lớp Type A Cải tiến 2 (Type AM).
**_I-6_** là một tàu ngầm tuần dương, là chiếc duy nhất thuộc phân lớp của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, và có khả năng mang máy bay. Nhập biên chế năm 1935, _I-6_ đã
**_I-29_**, tên mã _Matsu_, là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm
**_I-177_** (nguyên là **_tàu ngầm số 155_**, rồi **_I-77_** cho đến ngày 20 tháng 5, 1942) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc
**_I-56_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944, nó hoạt động
**_I-53_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C3 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu ngầm
**_I-3_** là một tàu ngầm tuần dương lớp bao gồm bốn chiếc có trọng lượng choán nước lên đến 2.135 tấn, được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến
**_I-65_**, sau đổi tên thành **_I-165_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai V nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1932. Nó đã phục vụ trong
**_I-47_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C2 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-5_** là chiếc tàu ngầm mang máy bay đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản và đã hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Là chiếc duy nhất trong phân lớp
**_I-66_**, sau đổi tên thành **_I-166_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai V nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1932. Nó đã phục vụ trong
**_I-4_** là một tàu ngầm tuần dương lớp bao gồm bốn chiếc có trọng lượng choán nước lên đến 2.135 tấn, được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến
**_I-19_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_I-64_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai IV nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1930. Nó đã phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_I-38_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó đã từng tham