✨I-18 (tàu ngầm Nhật)

I-18 (tàu ngầm Nhật)

I-18 là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã phóng tàu ngầm bỏ túi tham gia Tấn công Trân Châu Cảng và trong cuộc tấn công tàu bè Đồng Minh tại Diego-Suarez, Madagascar, tham gia tuần tra càn quét tàu bè trong Ấn Độ Dương, cũng như tham gia Chiến dịch Guadalcanal trước khi bị tàu khu trục Hoa Kỳ đánh chìm trong biển Coral vào ngày 11 tháng 2, 1943.

Thiết kế và chế tạo

Thiết kế

Tàu ngầm Type C được thiết kế dựa trên phân lớp KD6 của lớp Kaidai dẫn trước, nhưng trang bị vũ khí ngư lôi mạnh hơn để tấn công tầm xa. Chúng có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn, lườn tàu có chiều dài , mạn tàu rộng và mớn nước sâu . Con tàu có thể lặn sâu đến .

Tàu ngầm Type C được trang bị hai động cơ diesel công suất , mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn, mỗi trục được vận hành bởi một động cơ điện công suất . Khi di chuyển trên mặt nước nó đạt tốc độ tối đa và khi lặn dưới nước, tầm xa hoạt động của Type C là ở tốc độ , và có thể lặn xa ở tốc độ .

Các con tàu có tám ống phóng ngư lôi , tất cả được bố trí trước mũi, và mang theo tổng cộng 20 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu bao gồm khẩu hải pháo , cùng hai pháo phòng không 25 mm Type 96 nòng đơn hoặc nòng đôi. Các bộ gá trên boong tàu phía sau tháp chỉ huy cho phép nó vận chuyển và phóng một tàu ngầm bỏ túi Type A (Kō-hyōteki).

Chế tạo

Được đặt hàng trong Chương trình Maru 3 năm 1937, I-18 được đặt lườn như là chiếc Tàu ngầm số 45 tại Xưởng vũ khí Hải quân Sasebo ở Sasebo vào ngày 25 tháng 8, 1937. Nó được đổi tên thành I-18 vào ngày 1 tháng 6, 1938

Trung tá Hải quân Otani Kiyonori tiếp nhận quyền chỉ huy I-18 từ ngày 25 tháng 8, 1941, Phần còn lại của Đơn vị "A" đi đến Penang vào ngày 27 tháng 4, nơi họ gặp gỡ tàu chở thủy phi cơ Nisshin,vốn được cải biến để vận chuyển tàu ngầm bỏ túi Type A. I-16, I-18I-20 mỗi chiếc nhận một tàu ngầm bỏ túi tại Penang.

Tuần tra tại Ấn Độ Dương

I-18 cùng phần còn lại của Đơn vị "A", do I-10 đảm trách vai trò soái hạm, khởi hành từ cảng Penang vào ngày 30 tháng 4 và hướng sang phía Tây để tiến vào Ấn Độ Dương. Trên đường đi, các tàu ngầm được các chiếc Aikoku MaruHōkoku Maru tiếp nhiên liệu trên biển trong các ngày 5, 10 và 15 tháng 5. Ở vị trí về phía Đông Nam Madagascar vào ngày 17 tháng 5, I-18 gặp sự cố khi biển động mạnh khiến nước biển tràn vào làm ngập khoang động cơ diesel bên mạn trái và bị hư hại 4 xy lanh. Điều này đã ngăn trở chiếc tàu ngầm đi đến địa điểm phóng tàu ngầm bỏ túi đúng theo kế hoạch.

Chiếc thủy phi cơ Yokosuka E14Y1 của I-10 bắt đầu hoạt động trinh sát các cảng Nam Phi, khi thực hiện một phi vụ trinh sát bên trên Durban vào ngày 20 tháng 5, và lần lượt sau đó là East London, Port Elizabeth và Simon's Town trong một tuần lễ tiếp theo. Trong đêm 29 tháng 5, chiếc Yokosuka E14Y1 của I-10 trinh sát bên trên Diego-Suarez, Madagascar và phát hiện thiết giáp hạm Anh trong số tàu bè neo đậu tại đây. Tư lệnh Đơn vị "A" quyết định chọn Diego-Suarez là mục tiêu cho đợt tấn công bằng tàu ngầm bỏ túi, lên kế hoạch thực hiện vào ngày 30 tháng 5. I-16I-20 đã phóng tàu ngầm bỏ túi của họ ở vị trí cách ngoài khơi Diego-Suarez vào ngày 30 tháng 5, nhưng I-18 không thể phóng do tàu ngầm bỏ túi của nó gặp trục trặc động cơ.

Hoàn thành nhiệm vụ tấn công bằng tàu ngầm bỏ túi, Đơn vị "A" chuyển sang tuần tra săn tàu buôn đối phương. I-18 đã tấn công và đánh chìm tàu buôn Na Uy Wilford trong eo biển Mozambique tại tọa độ vào ngày 8 tháng 6, rồi phóng bỏ chiếc tàu ngầm bỏ túi của nó vào ngày 9 tháng 6. Đến ngày 1 tháng 7, nó phóng ngư lôi và gây hư hại cho chiếc tàu buôn Hà Lan De Weert , khiến mục tiêu này đắm hai ngày sau đó tại tọa độ .

Đến ngày 2 tháng 7, I-18 tìm cách tấn công chiếc tàu buôn vũ trang Anh Phemius , nhưng các quả ngư lôi của I-18 bị kích nổ sớm, và Phemius chống trả bằng hải pháo; I-18 thoát được mà không bị hư hại. Trong Ấn Độ Dương về phía Nam vịnh St. Lucia, Nam Phi vào ngày 6 tháng 7, nó phóng ngư lôi tấn công và gây hư hại cho chiếc , rồi đánh chìm mục tiêu bằng hải pháo tại tọa độ . Nhiều máy bay của Không quân Hoàng gia Anh và Không quân Nam Phi đã được tung ra để truy tìm chiếc tàu ngầm, nhưng I-18 đã thoát được.

I-18 đã tiến hành trinh sát Rodrigues vào ngày 20 tháng 7, và Diego Garcia vào ngày 31 tháng 7, trước khi lên đường quay trở về căn cứ. Khi gần về đến Penang vào ngày 2 tháng 8, nó phát hiện một tàu ngầm không rõ nhận dạng, có thể là một tàu ngầm Anh, đang truy đuổi theo I-18. Tuy nhiên I-18 đi đến cảng Penang an toàn cùng vào ngày hôm đó. Chiếc tàu ngầm tiếp tục lên đường quay trở về Nhật Bản để sửa chữa và nâng cấp, đi đến Yokosuka vào ngày 23 tháng 8.

1943

Chiến dịch Guadalcanal

Trong khi I-18 đang được đại tu, Chiến dịch Guadalcanal bắt đầu vào ngày 7 tháng 8, khi lực lượng Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ đổ bộ lên Guadalcanal, Tulagi, đảo Florida, Gavutu và Tanambogo ở phía Đông Nam quần đảo Solomon. Do đó sau khi hoàn tất việc sửa chữa, I-18 khởi hành từ căn cứ Kure vào ngày 17 tháng 12 để tham gia các hoạt động tại khu vực quần đảo Solomon. Sau khi ghé qua căn cứ Truk, chiếc tàu ngầm tiếp tục đi đến khu vực neo đậu ngoài khơi đảo Shortland quần đảo Shortland để bắt đầu các chuyến đi tiếp liệu. Vào sáng sớm ngày 3 tháng 1, 1943, tàu ngầm Hoa Kỳ phát hiện I-18 đang di chuyển trên mặt nước trong biển Solomon về phía Tây Nam Rendova tại tọa độ , nên đã phóng ngư lôi tấn công. Grayback nghe thấy tiếng nổ, nên tin rằng đã đánh chìm được tàu ngầm đối phương; tuy nhiên các quả ngư lôi của Grayback đã bị kích nổ sớm, vì I-18 đã lặn xuống né tránh mà không bị hư hại gì.

I-18 thực hiện được tổng cộng ba chuyến đi tiếp liệu cho lực lượng Nhật Bản đang tham gia chiến đấu tại Guadalcanal, cho chất dỡ hàng tiếp liệu ngoài khơi mũi Esperance về phía bờ biển Tây Bắc Guadalcanal. Nó chuyển giao được 15 tấn hàng hóa trong các thùng tiếp liệu vào ngày 5 tháng 1, rồi 25 tấn hàng hóa trong các thùng tiếp liệu vào ngày 11 tháng 1. Đến ngày 22 tháng 1, chiếc tàu ngầm xuất phát từ Truk cho chuyến đi tiếp liệu cuối cùng, vận chuyển được 18 tấn hàng hóa trong các thùng tiếp liệu đến mũi Esperance vào ngày 26 tháng 1.

Đến ngày 28 tháng 1, I-18 được phối thuộc cùng Lực lượng Tàu ngầm "A" và được phái đến hoạt động tại các vùng biển về phía Bắc đảo Rennell và phía Nam Guadalcanal. Tại đây nó hình thành nên một tuyến tuần tra, phục vụ cùng các tàu ngầm I-11 (soái hạm), I-16, I-17, I-20, I-25, I-26, I-32I-176, nhằm ngăn chặn lực lượng hải quân Đồng Minh có khả năng can thiệp vào Chiến dịch Ke, cuộc triệt thoái lực lượng Nhật Bản đang trú đóng tại Guadalcanal. Đến ngày 2 tháng 2, Lực lượng Tàu ngầm "A" được lệnh đánh chặn một lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay Hoa Kỳ ở vị trí về phía Đông Nam đảo San Cristóbal, nhưng họ đã không tìm thấy mục tiêu.

Nhật Bản hoàn tất Chiến dịch Ke vào ngày 9 tháng 2, sau khi di tản được 11.700 binh lính khỏi Guadalcanal. Vào ngày hôm đó, Lực lượng Tàu ngầm "A" được lệnh đắnh chặn một lực lượng hải quân Hoa Kỳ ở vị trí về phía Đông Nam đảo Rennell. Hai tàu ngầm bao gồm I-18 đã phát hiện và tấn công đối phương trước khi mất dấu mục tiêu. Trong ngày đó, Tư lệnh Lực lượng Tàu ngầm "A" ra lệnh cho mọi tàu ngầm ngoại trừ I-11I-17 rút lui về Truk.

Bị mất

Vào ngày 11 tháng 2, 1943, I-18 báo cáo phát hiện một lực lượng đặc nhiệm Hoa Kỳ trong biển Coral cách về phía Nam đảo San Cristóbal. Một thủy phi cơ OS2U Kingfisher xuất phát từ tàu tuần dương hạng nhẹ đã phát hiện chiếc tàu ngầm đang ở cách lực lượng đặc nhiệm , nên thả một phao tiêu khói đánh dấu và báo cáo vị trí cho tàu khu trục . Fletcher dò được tín hiệu sonar của I-18 ngay trước mặt ở khoảng cách nên thả một lượt mìn sâu tấn công lúc 15 giờ 27 phút. Đến 15 giờ 39 phút, chiếc tàu khu trục nhìn thấy những bọt khí lớn và dầu trồi lên mặt nước, rồi nghe thấy một tiếng nổ lớn dưới nước lúc 15 giờ 43 phút. Nó thả thêm ba quả mìn sâu vào giữa vệt dầu loang, rồi đến 15 giờ 46 bắt đầu thấy nhiều mảnh vỡ các loại trồi lên mặt nước cùng vệt dầu loang rất lớn. I-18 đã bị đánh chìm với tổn thất toàn bộ 102 thành viên thủy thủ đoàn tại tọa độ .

Hải quân Nhật Bản công bố I-18 có thể đã bị mất tích tại khu vực biển Coral vào ngày nó bị đánh chìm. Tên nó được cho rút khỏi đăng bạ hải quân vào ngày 1 tháng 4, 1943.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_I-18_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã
**_I-124_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 52_** và mang tên **_I-24_** từ năm 1927 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
**_I-7_** là một tàu ngầm tuần dương phân lớp bao gồm hai chiếc có khả năng mang máy bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó cùng với tàu chị em _I-8_ là những
**_I-10_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_I-69_**, sau đổi tên thành **_I-169_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**_I-121_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 48_** và mang tên **_I-21_** từ năm 1924 đến năm 1938 là một tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu
**_I-35_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_I-372_** là một tàu ngầm vận tải thuộc lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-2_** là một tàu ngầm tuần dương lớp bao gồm bốn chiếc có trọng lượng choán nước lên đến 2.135 tấn, được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến
**_I-15_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã
**_I-122_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 49_** và mang tên **_I-22_** từ năm 1926 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
**_I-58_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Đang khi chế tạo, nó được cải biến
**_I-20_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã
**_I-26_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_I-44_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944, nó từng thực
**_I-8_** là một tàu ngầm tuần dương phân lớp bao gồm hai chiếc có khả năng mang máy bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó cùng với tàu chị em _I-7_ là những
**_I-33_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_I-367_** là một tàu ngầm vận tải thuộc lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-373_** là một tàu ngầm vận tải được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai, là chiếc duy nhất thuộc lớp Type D2 được
**_I-13_** là một tàu ngầm lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai, thuộc phân lớp Type A Cải tiến 2 (Type AM). Được
**_I-366_** là một tàu ngầm vận tải thuộc lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã tham
**_I-30_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_I-364_** là một tàu ngầm vận tải thuộc lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-179_** (nguyên là **_tàu ngầm số 157_**, rồi **_I-79_** cho đến ngày 1 tháng 11, 1941) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc
**_I-6_** là một tàu ngầm tuần dương, là chiếc duy nhất thuộc phân lớp của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, và có khả năng mang máy bay. Nhập biên chế năm 1935, _I-6_ đã
**_I-64_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai IV nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1930. Nó đã phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_I-19_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_I-177_** (nguyên là **_tàu ngầm số 155_**, rồi **_I-77_** cho đến ngày 20 tháng 5, 1942) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc
**_I-56_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944, nó hoạt động
**_I-3_** là một tàu ngầm tuần dương lớp bao gồm bốn chiếc có trọng lượng choán nước lên đến 2.135 tấn, được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến
**_I-29_**, tên mã _Matsu_, là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm
**_I-65_**, sau đổi tên thành **_I-165_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai V nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1932. Nó đã phục vụ trong
**_I-22_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu ngầm thứ hai của
**_I-47_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C2 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-59_**, sau đổi tên thành **_I-159_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIB nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1929. Trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_I-38_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó đã từng tham
**_I-71_**, sau đổi tên thành **_I-171_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**_I-41_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó tham gia hoạt
**_I-363_** là một tàu ngầm vận tải thuộc lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-53_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C3 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu ngầm
**_I-5_** là chiếc tàu ngầm mang máy bay đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản và đã hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Là chiếc duy nhất trong phân lớp
**_I-23_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_I-66_**, sau đổi tên thành **_I-166_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai V nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1932. Nó đã phục vụ trong
**_I-184_** (nguyên mang tên **_I-84_**) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1943. Nó đã hoạt động trong Chiến
**_I-371_** là một tàu ngầm vận tải thuộc lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-24_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu ngầm thứ hai của
**_I-4_** là một tàu ngầm tuần dương lớp bao gồm bốn chiếc có trọng lượng choán nước lên đến 2.135 tấn, được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến
**_I-34_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_I-27_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã