I-2 là một tàu ngầm tuần dương lớp bao gồm bốn chiếc có trọng lượng choán nước lên đến 2.135 tấn, được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nhập biên chế vào năm 1926, nó đã phục vụ trong cuộc Chiến tranh Trung-Nhật và Chiến tranh Thế giới thứ hai. Con tàu đã hỗ trợ cho cuộc tấn công Trân Châu Cảng, càn quét tàu bè tại Ấn Độ Dương, và tham gia các chiến dịch quần đảo Aleut, Guadalcanal, New Guinea và Chiến dịch Ke. I-2 bị tàu khu trục Hoa Kỳ đánh chìm trong biển Bismarck vào ngày 7 tháng 4, 1944.
Thiết kế và chế tạo
Thiết kế
Junsen 1 (J1) là một lớp tàu ngầm tuần dương vốn được thiết kế chịu ảnh hưởng bởi chiếc SM U-142 thời Thế Chiến I của Đế quốc Đức. Chúng có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn, Đang khi chế tạo, nó được đổi tên thành I-2 vào ngày 1 tháng 11, 1924 Vào ngày 5 tháng 11, 1929, nó được cho xuất biên chế và đưa về thành phần dự bị, Chúng kết thúc chuyến đi huấn luyện khi về đến Sasebo vào ngày 4 tháng 4, 1935. Đến ngày 5 tháng 10, I-2 lại khởi hành từ Shortland cho một chuyến đi tiếp liệu đến Guadalcanal, nhưng trên đường đi đã phải chuyển hướng đến đảo Bycee thuộc quần đảo Russell, nơi nó thả chiếc xuồng Daihatsu vào ngày 6 tháng 10. Sau hoàng hôn ngày 13 tháng 2, I-2 đi đến nơi và xâm nhập vào vịnh Kamimbo cách bờ biển chỉ có , nhưng nó đã không tìm thấy xác tàu của I-1. Đến ngày 15 tháng 2, I-2 tìm cách xâm nhập một lần nữa, đi đến vị trí cách bờ biển , nhưng bị các PT-boat phát hiện và thả mìn sâu tấn công. Sau khi một máy bay đối phương tấn công I-2 lúc 11 giờ 20 phút, nó từ bỏ nỗ lực và rút lui về quần đảo Shortland, đến nơi vào ngày 18 tháng 2. Chiếc tàu ngầm khởi hành cùng ngày hôm đó, ghé đến Truk từ ngày 23 đến ngày 26 tháng 2 trước khi tiếp tục hành trình quay trở về Nhật Bản, đi đến Yokosuka vào ngày 5 tháng 3, nơi nó được sửa chữa.
Chiến dịch quần đảo Aleut
Vào ngày 1 tháng 4, Đội tàu ngầm 7 được điều sang hoạt động cùng Đệ Ngũ hạm đội để phục vụ tại khu vực quần đảo Aleut. Từ ngày 11 tháng 5, lực lượng Đồng Minh bắt đầu phản công tại khu vực Bắc Thái Bình Dương, khi Lực lượng Đặc nhiệm 16 dưới quyền Chuẩn đô đốc Thomas C. Kinkaid cho đổ bộ các sư đoàn 4 và 7 nhằm tái chiếm đảo Attu thuộc quần đảo Aleut. Đứng trước nguy cơ thất bại toàn diện, vào ngày 21 tháng 5, Đại bản doanh Nhật Bản quyết định triệt thoái toàn bộ lực lượng còn lại khỏi đảo Kiska lân cận. Công việc được tiến hành từ ngày 26 tháng 5, khi binh lính Nhật Bản được tàu ngầm di tản vể đảo Paramushiro thuộc quần đảo Kuril.
Sau khi công việc sửa chữa hoàn tất, I-2 khởi hành từ Yokosuka vào ngày 22 tháng 5 để đi sang Paramushiro, đến nơi vào ngày 27 tháng 5. Nó lên đường ba ngày sau đó, vận chuyển 250 thùng đạn dược, và sau khi đi đến Kiska lúc 22 giờ 20 ngày 3 tháng 6, nó chất dỡ số hàng hóa và đón lên tàu 18 thủy thủ cùng 24 người khác, rồi khởi hành lúc 00 giờ 55 phút ngày 4 tháng 6 cho chuyến quay trở về Paramushiro, đến nơi vào ngày 8 tháng 6. Nó lại lên đường vào ngày 11 tháng 6, vận chuyển đạn pháo phòng không, thư tín cùng sáu tấn thực phẩm đến Kiska. Đến ngày 16 tháng 6, lúc đang đi trên mặt nước với tốc độ trong bối cảnh sương mù dày đặc, I-2 suýt bị mắc cạn tại đảo Buldir; rồi sang ngày 17 tháng 6, một tàu đối phương trang bị radar đã phát hiện chiếc tàu ngầm nên nả pháo tấn công, một phát đạn pháo bắn trúng khoang chứa bên mạn trái, nhưng may mắn quả đạn pháo bị tịt ngòi. I-2 phải lặn khẩn cấp để né tránh, và thoát đi được sau khi bị truy đuổi suốt bảy giờ, và kiểm soát được một vụ rò rỉ nước vào phòng động cơ. Nó đi đến Kiska lúc 20 giờ 05 phút ngày 17 tháng 6, chất dỡ hàng tiếp liệu và đón lên tàu 31 thủy thủ cùng chín hành khách khác trước khi lên đường lúc 20 giờ 45 phút. Nó về đến Paramushiro vào ngày 22 tháng 6.
Đến ngày 29 tháng 6, I-2 cùng các tàu ngầm Ro-104 và Ro-105 khởi hành từ Paramushiro để làm nhiệm vụ trinh sát thời tiết khu vực phía Bắc đảo Adak, hỗ trợ cho hoạt động triệt thoái khỏi Kiska. Đang khi tiến vào eo biển Amchitka, I-2 bị một hạm tàu nổi Đồng Minh phát hiện lúc 03 giờ 45 phút, và bị truy đuổi trong suốt 18 giờ tiếp theo, chịu đựng hai lượt tấn công bằng mìn sâu. Nó cuối cùng cũng đi đến khu vực tuần tra vào ngày 10 tháng 7, nơi nó gửi báo cáo thời tiết đầu tiên. Ba ngày sau đó, đang khi đi trên mặt nước để nạp điện ắc-quy vào lúc chiều tối, nó bị một máy bay tấn công, nhưng đã lặn xuống kịp thời và không bị hư hại. Khi nhiệm vụ trinh sát thời tiết hoàn thành vào ngày 15 tháng 7, I-2 rời khu vực Adak để hoạt động tuần tra.
Được thông báo Đội đặc nhiệm 16.21 Hải quân Hoa Kỳ tiến hành bắn phá Kiska vào ngày 22 tháng 7, I-2 tìm cách đánh chặn đối phương; nó nghe thấy tiếng chân vịt của nhiều tàu chiến, nhưng sương mù dày đặc khiến chiếc tàu ngầm không nhìn thấy đối thủ. Nó đi đến vùng biển phía Đông Bắc Amchitka vào ngày 24 tháng 7, rồi sang ngày hôm sau đã tham gia cùng tàu ngầm I-23 tại tuyến tuần tra "D". Phía Nhật Bản hoàn tất việc triệt thoái lực lượng khỏi Kiska vào ngày 28 tháng 7, và đến 20 giờ 25 ngày hôm đó I-2 được lệnh bắn phá sân bay gần Constantine Harbor trên đảo Amchitka; tuy nhiên nó không tìm thấy mục tiêu vì sương mù dày đặc. Sang ngày hôm sau 29 tháng 7, chiếc tàu ngầm được lệnh rút lui về Paramushiro, đến nơi vào ngày 4 tháng 8. Nó lên đường hai ngày sau đó để quay trở về Nhật Bản, đi đến Yokosuka vào ngày 11 tháng 8.
Đang khi được sửa chữa tại Yokosuka, I-2 mắc tai nạn va chạm với đê chắn sóng trong vịnh Yokosuka vào ngày 10 tháng 9, nhưng chỉ bị hư hại nhẹ. Sau khi hoàn tất việc sửa chữa, nó rời Yokosuka vào ngày 9 tháng 10, ghé qua Paramushiro trong các ngày 14 và 15 tháng 10, trước khi hoạt động tuần tra tại khu vực phía Tây quần đảo Aleut. Đến ngày 14 tháng 11, nó trở thành tàu ngầm Nhật Bản đầu tiên sử dụng ngư lôi Type 92 với ngòi nổ cảm ứng từ đầu tiên trong tác chiến, khi tự nhận đã đánh chìm một tàu vận tải Đồng Minh không rõ nhận dạng trong eo biển Amchitka. Sau khi quay trở về Yokosuka vào ngày 1 tháng 12, chiếc tàu ngầm được sửa chữa, và có thể đã được bổ sung một thiết bị dò radar.
1944
Chiến dịch New Guinea
Vào ngày 1 tháng 2, 1944, Đội tàu ngầm 7 được điều động trực thuộc Đệ Lục hạm đội, và được giao nhiệm vụ hỗ trợ tiếp liệu cho lực lượng Nhật Bản đang tác chiến tại New Guinea cùng các quần đảo lân cận, trong khuôn khổ Chiến dịch New Guinea. I-2 khởi hành từ Yokosuka vào ngày 10 tháng 3 để đi sang căn cứ Truk, đến nơi vào ngày 19 tháng 3. Nó lên đường vào ngày 26 tháng 3 để đi sang đảo New Britain, đi đến vịnh Kimbe vào ngày 2 tháng 4, và bắt đầu chất dỡ hàng hóa trước khi lên đường ngay trong ngày hôm đó. Đi đến Rabaul vào ngày 4 tháng 4, nó lại lên đường ngay trong ngày hôm đó để quay trở lại Truk, dự định sẽ đến nơi vào ngày 11 tháng 4.
Bị mất
I-2 đang đi ngầm trong biển Bismarck trên đường quay trở về Truk, tại vị trí về phía Tây Bắc đảo New Hanover, khi nó bị tàu khu trục Hoa Kỳ phát hiện qua sonar lúc 06 giờ 30 phút ngày 7 tháng 4. Saufley tấn công lúc 06 giờ 45 phút với một loạt chín quả mìn sâu, rồi tiếp nối với loạt chín quả thứ hai lúc 07 giờ 15 phút. Sau loạt mìn sâu thứ hai, chiếc tàu khu trục nghe thấy hai vụ nổ ngầm dưới dươi, và quan sát thấy một mảng dầu loang lớn trồi lên mặt biển lúc 07 giờ 23 phút. I-2 đã bị đánh chìm tại tọa độ với tổn thất toàn bộ 111 thành viên thủy thủ đoàn.
Đến ngày 4 tháng 5, 1944, Hải quân Nhật Bản công bố I-2 có thể đã bị mất tại khu vực ngoài khơi đảo New Ireland. Tên nó được cho rút khỏi đăng bạ hải quân vào ngày 10 tháng 6, 1944.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_I-2_** là một tàu ngầm tuần dương lớp bao gồm bốn chiếc có trọng lượng choán nước lên đến 2.135 tấn, được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến
**_I-124_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 52_** và mang tên **_I-24_** từ năm 1927 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
**_I-121_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 48_** và mang tên **_I-21_** từ năm 1924 đến năm 1938 là một tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu
**_I-69_**, sau đổi tên thành **_I-169_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**_I-15_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã
**_I-122_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 49_** và mang tên **_I-22_** từ năm 1926 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
**_I-185_** (nguyên mang tên **_I-85_**) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1943. Nó đã hoạt động trong Chiến
**_I-7_** là một tàu ngầm tuần dương phân lớp bao gồm hai chiếc có khả năng mang máy bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó cùng với tàu chị em _I-8_ là những
**_I-44_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944, nó từng thực
**_I-12_** là một tàu ngầm lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai, thuộc phân lớp Type A Cải tiến 1 (Type A2). Nhập
**_I-123_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 50_** và mang tên **_I-23_** từ năm 1927 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
**_I-35_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_I-36_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_I-58_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Đang khi chế tạo, nó được cải biến
**_I-371_** là một tàu ngầm vận tải thuộc lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-372_** là một tàu ngầm vận tải thuộc lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-68_**, sau đổi tên thành **_I-168_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**_I-367_** là một tàu ngầm vận tải thuộc lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã tham
**_I-30_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_I-33_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_I-20_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã
**_I-351_** là một tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc duy nhất của lớp tàu ngầm chở dầu _I-351_ () được Nhật Bản hoàn tất trong giai đoạn cuối Chiến tranh
**_I-60_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIB nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1928. Nó liên can đến tai nạn va chạm vốn đã làm
**_I-13_** là một tàu ngầm lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai, thuộc phân lớp Type A Cải tiến 2 (Type AM). Được
**_I-366_** là một tàu ngầm vận tải thuộc lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-364_** là một tàu ngầm vận tải thuộc lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-14_** là một tàu ngầm lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai, thuộc phân lớp Type A Cải tiến 2 (Type AM).
**_I-6_** là một tàu ngầm tuần dương, là chiếc duy nhất thuộc phân lớp của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, và có khả năng mang máy bay. Nhập biên chế năm 1935, _I-6_ đã
**_I-3_** là một tàu ngầm tuần dương lớp bao gồm bốn chiếc có trọng lượng choán nước lên đến 2.135 tấn, được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến
**_I-29_**, tên mã _Matsu_, là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm
**_I-47_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C2 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-1_** là một tàu ngầm lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu ngầm tuần dương
**_I-65_**, sau đổi tên thành **_I-165_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai V nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1932. Nó đã phục vụ trong
**_I-53_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C3 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu ngầm
**_I-5_** là chiếc tàu ngầm mang máy bay đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản và đã hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Là chiếc duy nhất trong phân lớp
**_I-19_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_I-64_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai IV nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1930. Nó đã phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_I-71_**, sau đổi tên thành **_I-171_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**_I-75_**, sau đổi tên thành **_I-175_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**_I-56_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944, nó hoạt động
**_I-18_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã
**_I-10_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_I-23_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_I-59_**, sau đổi tên thành **_I-159_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIB nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1929. Trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_I-66_**, sau đổi tên thành **_I-166_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai V nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1932. Nó đã phục vụ trong
**_I-177_** (nguyên là **_tàu ngầm số 155_**, rồi **_I-77_** cho đến ngày 20 tháng 5, 1942) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc
**_I-370_** là một tàu ngầm vận tải thuộc lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-56_**, sau đổi tên thành **_I-156_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIB nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1929. Trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_I-184_** (nguyên mang tên **_I-84_**) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1943. Nó đã hoạt động trong Chiến