I-60 là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIB nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1928. Nó liên can đến tai nạn va chạm vốn đã làm đắm tàu ngầm chị em I-63, rồi trong Chiến tranh Thế giới thứ hai đã hỗ trợ cho chiến dịch xâm chiếm Đông Ấn thuộc Hà Lan vào đầu năm 1942, trước khi bị tàu khu trục Anh đánh chìm trong eo biển Sunda vào ngày 17 tháng 1, 1942.
Thiết kế và chế tạo
Thiết kế
Phân lớp tàu ngầm Kaidai IIIB là sự lặp lại thiết kế của phân lớp Kaidai IIIA dẫn trước, chỉ có những cải tiến nhỏ để giúp đi biển tốt hơn. Chúng có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn, lườn tàu có chiều dài , mạn tàu rộng và mớn nước sâu . Con tàu có thể lặn sâu và có một thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 60 sĩ quan và thủy thủ.
Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel , mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn, mỗi trục được vận hành bởi một động cơ điện . Con tàu có thể đạt tốc độ tối đa khi nổi và khi lặn. Khi Kaidai IIIB di chuyển trên mặt nước nó đạt tầm xa hoạt động ở tốc độ , và có thể lặn xa ở tốc độ .
Lớp Kaidai IIIA có tám ống phóng ngư lôi , gồm sáu ống trước mũi và hai ống phía đuôi; mỗi ống mang theo một quả ngư lôi nạp lại, nên mang tổng cộng 16 ngư lôi. Chúng cũng trang bị một /45 caliber trên boong tàu.
Chế tạo
I-60 được đặt lườn tại Xưởng vũ khí Hải quân Sasebo ở Sasebo vào ngày 10 tháng 10, 1927. Nó được hạ thủy vào ngày 24 tháng 4, 1929, Đội tàu ngầm 28 có thể đã được bố trí ngay vào Hải đội Tàu ngầm 2, trực thuộc Đệ Nhị hạm đội, hoặc trước tiên được điều về Quân khu Hải quân Sasebo trước khi chuyển sang Hải đội Tàu ngầm 2 vào ngày 1 tháng 12, 1930. Chuyến đi kết thúc khi họ đến vịnh Sukumo, Shikoku vào ngày 25 tháng 2, 1935. Tại đây I-60 thay phiên cho I-59 trong vai trò soái hạm của Đội tàu ngầm 28 vào ngày 9 tháng 1.
Jupiter cứu vớt được ba người sống sót, nhưng một người qua đời sau đó. 84 hoặc 86 thành viên thủy thủ đoàn đã tử trận cùng I-60. Hải quân Nhật Bản xóa đăng bạ con tàu vào ngày 10 tháng 3, 1942.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_I-60_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIB nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1928. Nó liên can đến tai nạn va chạm vốn đã làm
**_I-124_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 52_** và mang tên **_I-24_** từ năm 1927 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
**_I-351_** là một tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc duy nhất của lớp tàu ngầm chở dầu _I-351_ () được Nhật Bản hoàn tất trong giai đoạn cuối Chiến tranh
**_I-7_** là một tàu ngầm tuần dương phân lớp bao gồm hai chiếc có khả năng mang máy bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó cùng với tàu chị em _I-8_ là những
**_I-69_**, sau đổi tên thành **_I-169_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**_I-12_** là một tàu ngầm lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai, thuộc phân lớp Type A Cải tiến 1 (Type A2). Nhập
**_I-367_** là một tàu ngầm vận tải thuộc lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-63_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIB nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1928. Nó bị mất sau tai nạn va chạm khi bị tàu
**_I-56_**, sau đổi tên thành **_I-156_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIB nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1929. Trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_I-59_**, sau đổi tên thành **_I-159_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIB nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1929. Trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_I-184_** (nguyên mang tên **_I-84_**) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1943. Nó đã hoạt động trong Chiến
**_I-75_**, sau đổi tên thành **_I-175_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
, nguyên là **_Tàu ngầm số 78_**, sau đổi tên thành , là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIA nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1927.
**_I-66_**, sau đổi tên thành **_I-166_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai V nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1932. Nó đã phục vụ trong
, nguyên là **_Tàu ngầm số 77_**, sau đổi tên thành , là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIA nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1927.
**_I-57_**, sau đổi tên thành **_I-157_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIB nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1929. Trong Chiến tranh Thế giới thứ
, nguyên là **_Tàu ngầm số 64_**, sau đổi tên thành , là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIA nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1927.
**_I-58_**, sau đổi tên thành **_I-158_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIA nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1928. Trong Chiến tranh Thế giới thứ
là một lớp tàu ngầm vận tải/chở dầu của Hải quân Đế quốc Nhật Bản hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Hải quân Nhật Bản gọi tên lớp tàu này như là
Ít nhất hai tàu ngầm của Hải quân Đức từng được đặt cái tên **_U-60_**: * là một hạ thủy năm 1916, phục vụ trong Thế Chiến I và đầu hàng năm 1917 ** Trong
**Tàu ngầm Kiểu _Kaidai**_ (海大型潜水艦, _Kaidai-gata sensuikan_) là một lớp tàu ngầm hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản hoạt động trước và trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Tên lớp tàu
**Tàu ngầm lớp Sen Toku I-400** (tiếng Nhật: 伊四〇〇型潜水艦) được đóng bởi hải quân Đế quốc Nhật Bản trong chiến tranh thế giới thứ II. Nó được biết đến như loại tàu ngầm lớn nhất
Đây là danh sách các tàu chiến thuộc Đế quốc Nhật Bản. ## Tàu chiến trung cổ * Atakebune, Tàu chiến cận bờ thế kỉ 16. * Châu Ấn Thuyền – Khoảng 350 tàu buồm
**Hải quân Đế quốc Nhật Bản** (kanji cổ: 大日本帝國海軍, kanji mới: 大日本帝国海軍, romaji: _Dai-Nippon Teikoku Kaigun_, phiên âm Hán-Việt: **_Đại Nhật Bản Đế quốc Hải quân_**), tên chính thức **Hải quân Đế quốc Đại Nhật
nhỏ|Tàu corvette [[động cơ hơi nước|hơi nước Pháp _Dupleix_ (1856–1887)]] **Corvette** (nguồn gốc từ tiếng Pháp: _corvair_; tiếng Việt còn có thể dịch là **tàu hộ tống nhỏ**, **tàu hộ vệ** hay **hộ vệ hạm**
**_Hiryū_** (**Nhật**: 飛龍, _Phi Long_) là một tàu sân bay thuộc lớp Sōryū được cải biến của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó là một trong những tàu sân bay Nhật đã mở đầu
nhỏ|300x300px| nhỏ|upright|Tàu khu trục , một chiếc thuộc của [[Hải quân Hoa Kỳ.]] **Tàu khu trục**, hay còn gọi là **khu trục hạm**, (tiếng Anh: _destroyer_) là một tàu chiến chạy nhanh và cơ động,
**Chiến tranh thế giới thứ nhất**, còn được gọi là **Đại chiến thế giới lần thứ nhất**, **Đệ nhất Thế chiến** hay **Thế chiến I**, là một cuộc chiến tranh thế giới bắt nguồn tại
nhỏ|250x250px|Hàng không mẫu hạm lớn nhất thế giới. Nhân viên điều hành trên tháp quan sát của chiếc [[USS Ronald Reagan của Hoa Kỳ.|thế=]] **Tàu sân bay** (tiếng Anh: _aircraft carrier_), hay **hàng không mẫu
**Tàu khu trục lớp Kongō** (tiếng Nhật: こんごう型護衛艦) là lớp tàu khu trục mang tên lửa có điều khiển (DDG) đầu tiên của Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF) được chế tạo
**_Kongō_** (tiếng Nhật: 金剛, Kim Cương) là chiếc tàu chiến-tuần dương đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc kiểu siêu-Dreadnought, là chiếc dẫn đầu của lớp Kongō bao gồm những chiếc _Hiei_,
**USS _Guadalcanal_ (CVE-60)** là một tàu sân bay hộ tống lớp _Casablanca_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai; tên nó được đặt theo đảo Guadalcanal thuộc khu
**_Arleigh Burke_** là một lớp tàu khu trục tên lửa dẫn đường thuộc biên chế Hải quân Hoa Kỳ. Nó được xây dựng dựa trên Hệ thống Tác chiến Aegis và radar mảng pha quét
**_Ise_** (), là chiếc dẫn đầu của lớp _Ise_ gồm hai chiếc thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, từng tham gia hoạt động tại mặt trận Thái Bình Dương trong Thế
nhỏ|243x243px|Tàu lửa SPT1 với đầu máy [[Đầu máy Đổi mới (D19E) tại Ga Phan Thiết, Bình Thuận.]] nhỏ|Một [[Vận tải hàng hóa đa phương thức|chuyến tàu chở hàng liên phương thức BNSF đi qua Wisconsin,
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Courageous**_ bao gồm ba chiếc tàu chiến-tuần dương được biết đến như là những "tàu tuần dương hạng nhẹ lớn" được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Trên
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Lion**_ bao gồm hai tàu chiến-tuần dương được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Mang biệt danh "Splendid Cats", Nó đã đánh
Jetfoil Toppi là một chiếc [[tàu nối Yakushima, Đảo Tanegashima và cảng Kagoshima tại Nhật Bản.]] **Tàu cánh ngầm** là một chiếc tàu có cánh giống như những chiếc lá lắp trên các giằng phía
**Mặt trận Balkan** (28 tháng 7 năm 1914 - 29 tháng 9 năm 1918) hay **Chiến trường Balkan** là một trong những mặt trận của Chiến tranh thế giới thứ nhất, diễn ra trên bán
nhỏ|Hình ảnh một tàu thủy **Tàu thủy** là một công trình kỹ thuật nổi, có thể chuyển dịch trên mặt nước, hay ngầm dưới nước, theo hướng đã định, với tốc độ cần thiết, và
**Lớp tàu khu trục A** là một hải đội bao gồm tám tàu khu trục được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc trong Chương trình Hải quân 1927. Một chiếc thứ chín,
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Invincible**_ bao gồm ba chiếc được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc và được đưa ra hoạt động vào năm 1908 như những tàu chiến-tuần dương đầu tiên
**Lớp tàu tuần dương _Prinz Adalbert**_ là một lớp tàu tuần dương bọc thép được Hải quân Đế quốc Đức (Kaiserliche Marine) chế tạo vào đầu những năm 1900. Hai chiếc thuộc lớp này đã
**Kinh tế Nhật Bản** là một nền kinh tế thị trường tự do phát triển. Nhật Bản là nền kinh tế lớn thứ ba thế giới theo GDP danh nghĩa và lớn thứ tư theo
là tên gọi cuộc triệt thoái của quân Nhật ra khỏi đảo Guadalcanal diễn ra từ ngày 14 tháng 1 đến 7 tháng 2 năm 1943. Cuộc triệt thoái này được tiến hành với sự
**USS _Oliver Mitchell_ (DE-417)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _John C. Butler_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến
**Chiến dịch Guadalcanal**, còn gọi là **Trận Guadalcanal**, tên mã của Đồng Minh là **Chiến dịch Watchtower**, diễn ra từ ngày 7 tháng 8 năm 1942 đến ngày 9 tháng 2 năm 1943 trên đảo
**USS _Waller_ (DD-466/DDE-466)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS _Tabberer_ (DE-418)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _John C. Butler_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy
**Vũng Tàu** là một thành phố cũ thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, vùng Đông Nam Bộ, Việt Nam. Đây là trung tâm kinh tế, tài chính, văn hóa, du lịch, và là một