✨USS Guadalcanal (CVE-60)
USS Guadalcanal (CVE-60) là một tàu sân bay hộ tống lớp Casablanca được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai; tên nó được đặt theo đảo Guadalcanal thuộc khu vực quần đảo Solomon, Nam Thái Bình Dương, nơi diễn ra Trận Guadalcanal vào năm 1942. Guadalcanal chỉ thuần túy hoạt động tại Mặt trận Đại Tây Dương cho đến hết Thế Chiến II, chủ yếu trong vai trò tìm diệt tàu ngầm U-boat Đức Quốc xã và huấn luyện phi công tàu sân bay, và nổi bật do thành tích chiếm được chiếc U-505 hầu như nguyên vẹn trong chiếc tranh. Nó xuất biên chế năm 1946, rút đăng bạ năm 1958 và bị bán để tháo dỡ năm 1959. Guadalcanal được tặng thưởng danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Tổng thống cùng ba Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.
Thiết kế và chế tạo
Con tàu dự định mang tên Astrolabe Bay (AVG-60), nhưng được đổi ký hiệu lườn thành ACV-60 vào ngày 20 tháng 8 năm 1942 trước khi được đặt lườn tại Xưởng tàu Vancouver của hãng Kaiser Company, Inc. ở Vancouver, Washington vào ngày 5 tháng 1 năm 1943. Nó được hạ thủy như là chiếc **Guadalcanal (ACV-60) vào ngày 5 tháng 6 năm 1943; được đỡ đầu bởi bà Alvin I. Malstrom; nhưng được xếp lại lớp thành CVE-60** vào ngày 15 tháng 7 năm 1943. Guadalcanal nhập biên chế tại Astoria, Oregon vào ngày 25 tháng 9 năm 1943 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại tá Hải quân Daniel V. Gallery.
Lịch sử hoạt động
1943
Sau chuyến đi chạy thử máy và huấn luyện, khi Đại tá Gallery thực hiện cất cánh và hạ cánh lần đầu tiên trên con tàu mới của mình, Guadalcanal tiến hành chuẩn nhận phi công tàu sân bay ngoài khơi San Diego, California, rồi khởi hành vào ngày 15 tháng 11 năm 1943, đi ngang qua kênh đào Panama và đi đến Norfolk, Virginia vào ngày 3 tháng 12. Tại đây nó trở thành soái hạm của Đội đặc nhiệm 22.3, rồi cùng các tàu khu trục hộ tống khởi hành từ Norfolk vào ngày 5 tháng 1 năm 1944 để truy lùng tàu ngầm U-boat Đức Quốc xã tại Bắc Đại Tây Dương.
Chuyến "tìm-diệt" thứ nhất
Tàu ngầm thời kỳ đầu Thế Chiến II phải chạy trên mặt nước trong hầu hết thời gian, và không thể lặn lâu hơn 72 giờ trước khi phải nổi lên mặt nước để nạp lại pin ắc-quy. Nhưng đến năm 1944, U-boat tránh không nổi lên mặt nước vào ban ngày do chúng sẽ bị máy bay tuần tra phát hiện. Các chuyến tuần tra xuất phát từ các tàu sân bay hộ tống bao trùm khu vực giữa đại dương; và việc nổi lên mặt nước vào ban đêm sẽ an toàn hơn, vì hoạt động bay đêm từ các tàu sân bay hộ tống được xem là quá nguy hiểm. Việc tốt nhất mà các tàu sân bay hộ tống làm được là thay thế các thùng nhiên liệu bổ sung bằng mìn sâu trên một máy bay ném bom-ngư lôi Grumman TBF Avenger, và chiếc máy bay có thể cất cánh từ lúc hoàng hôn, bay tuần tra suốt đêm và hạ cánh lúc bình minh. Những chiếc U-boat sẽ không biết liệu nó có vũ trang hay không, và không dám mạo hiểm ở lại trên mặt nước.
Đại tá Gallery quyết định Guadalcanal sẽ thử nghiệm các hoạt động bay ban đêm. Khi hệ thống tình báo Ultra giải mã được một kế hoạch tiếp nhiên liệu cho U-boat ở địa điểm cách về phía Tây quần đảo Azores ngay trước khi hoàng hôn ngày 16 tháng 1, chiếc tàu sân bay tung ra tám máy bay Avenger để rà soát khu vực hẹn gặp gỡ. Họ bắt gặp hai chiếc U-boat đang tiếp nhiên liệu và một chiếc khác đang chờ đợi. Sau khi họ bổ nhào ra khỏi mây để tấn công bằng mìn sâu, cả ba con tàu biến mất, nhưng 32 người sống sót từ chiếc U-544 đang bơi trên một vũng dầu. Sau khi chứng kiến thành công của đợt tấn công đêm đầu tiên, các phi công phấn khích ở lại lâu trên không trước khi quay trở lại tàu.
U-505 trở thành chiếc tàu chiến đối phương đầu tiên bị Hải quân Hoa Kỳ chiếm được ngoài biển khơi kể từ năm 1815. Đội đặc nhiệm của Guadalcanal được tặng thưởng danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Tổng thống do đã hoạt động anh dũng và phối hợp đồng đội nhịp nhành để chiếm được tàu đối phương. Trung uý David được tặng thưởng Huân chương Danh dự khi chỉ huy đội đổ bộ, và Đại tá Gallery cũng được tặng Huân chương Cống hiến (Legion of Merit) do lãnh đạo chiến dịch thành công. Chiếc tàu ngầm chiếm được có giá trị to lớn cho tình báo Hoa Kỳ, được cho hoạt động cùng Hải quân Hoa Kỳ cho đến hết chiến tranh như là chiếc để tìm hiểu những bí mật của tàu ngầm U-boat Đức. Số phận của nó được giữ kín cho đến khi chiến tranh kết thúc. U-505 hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng Khoa học và Công nghiệp (Chicago).
1944-1946
Guadalcanal đi đến Norfolk vào ngày 22 tháng 6 năm 1944, nhưng chỉ trải qua ít ngày trong cảng trước khi lại lên đường tuần tra. Nó rời Norfolk vào ngày 15 tháng 7, và cho đến ngày 1 tháng 12 đã thực hiện thêm ba chuyến tuần tra chống tàu ngầm tại vùng Tây Đại Tây Dương. Nó lên đường vào ngày 1 tháng 12 để huấn luyện tại vùng biển ngoài khơi Bermuda và Cuba, bao gồm việc huấn luyện cất hạ cánh ôn tập cho phi công thuộc liên đội không lực mới, thực hành tác xạ và thực tập chống tàu ngầm cùng chiếc tàu ngầm cũ USS R-9. Guadalcanal quay trở về Mayport, Florida vào ngày 15 tháng 12, tham gia việc huấn luyện chuẩn nhận phi công tàu sân bay và hoạt động huấn luyện tại vùng biển Cuba cho đến ngày 13 tháng 2 năm 1945, khi nó quay trở về Norfolk. Một chuyến đi huấn luyện ngắn khác đến vùng biển Caribe được thực hiện trước khi nó đi đến Mayport vào ngày 15 tháng 3 cho một lượt huấn luyện chuẩn nhận phi công, rồi chuyển đến Pensacola, Florida cho những hoạt động tương tự. Sau khi đã huấn luyện chuẩn nhận cho gần 4.000 phi công mới, Guadalcanal quay trở về Norfolk và được cho xuất biên chế tại đây vào ngày 15 tháng 7 năm 1946.
Guadalcanal được đưa về Hạm đội Dự bị Đại Tây Dương tại Norfolk. Ký hiệu lườn của nó được đổi thành CVU-60 vào ngày 15 tháng 7 năm 1955, và tên nó được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 27 tháng 5 năm 1958. Con tàu được bán cho hãng tại Hugo Neu Corp. New York để tháo dỡ vào ngày 30 tháng 4 năm 1959. Chuẩn đô đốc Daniel Gallery đã hạ cánh và cất cánh lần cuối cùng lên chiếc tàu sân bay trên một máy bay trực thăng ngoài khơi vịnh Guantánamo, Cuba, trước khi con tàu được kéo đến Nhật Bản để tháo dỡ.
Phần thưởng
Guadalcanal được tặng thưởng danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Tổng thống cùng ba Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II. Danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Tổng thống của nó được đích thân Đô đốc Ernest J. King, Trưởng ban Tác chiến Hải quân đề nghị.