, nguyên là Tàu ngầm số 64, sau đổi tên thành , là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIA nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1927. Trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, nó đã thực hiện ba chuyến tuần tra và hỗ trợ cho chiến dịch xâm chiếm Malaya vào tháng 12, 1941 và Đông Ấn thuộc Hà Lan vào đầu năm 1942. Sau đó nó phục vụ như một tàu huấn luyện cho đến khi bất hoạt vào tháng 1, 1944. Con tàu đầu hàng lực lượng Đồng Minh khi xung đột kết thúc vào tháng 8, 1945, và sau đó bị đánh chìm như như mục tiêu vào năm 1946 hay bị tháo dỡ vào năm 1948.
Thiết kế và chế tạo
Bối cảnh
Sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất, Bộ tham mưu Hải quân Đế quốc Nhật Bản bắt đầu cân nhắc chiến tranh tàu ngầm như một thành phần chiến lược của hạm đội, dựa trên thành công của các cường quốc hải quân khi bố trí tàu ngầm tuần dương tầm xa để đánh phá tàu buôn trong Thế Chiến I. Các nhà chiến lược Nhật Bản nhận ra khả năng sử dụng tàu ngầm để trinh sát tầm xa, cũng như trong cuộc chiến tranh tiêu hao chống lại một hạm đội đối phương tiếp cận Nhật Bản. Họ đã sở hữu hai tàu ngầm lớn có tầm hoạt động xa, I-52 và I-52 trong khuôn khổ Chương trình Hạm đội 8-6, khi họ nhận được bảy tàu U-boat của Hải quân Đế quốc Đức vào ngày 20 tháng 6, 1919 như là chiến lợi phẩm sau khi Thế Chiến I kết thúc, Hải quân Nhật bắt đầu xem xét lại các khái niệm thiết kế tàu ngầm của họ. Phía Nhật Bản nhanh chóng thuê hàng trăm kỹ sư, kỹ thuật viên tàu ngầm và sĩ quan U-boat đang thất nghiệp sau khi Đế quốc Đức thua trận, và đưa họ đến Nhật Bản theo hợp đồng kéo dài năm năm. Nhật Bản cũng phái các đại biểu đi sang Cộng hòa Weimar để tích cực mua lại nhiều bằng sáng chế. Phần lớn dựa trên kiểu Kaidai II với chiếc I-52 duy nhất được chế tạo, với thân tàu vỏ kép được gia cố, thiết kế của lớp còn chịu ảnh hưởng bởi U-125, chiếc tàu ngầm Đức chiến lợi phẩm lớn nhất mà họ sở hữu.
Chúng có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn, lườn tàu có chiều dài và mạn tàu rộng và mớn nước sâu . Thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 60 sĩ quan và thủy thủ. Thân tàu có kích thước tương tự chiếc I-52, nhưng lớp vỏ trong chịu áp lực dày hơn cho phép nó lặn đến độ sâu . Thể tích bên trong tàu nhỉnh hơn nhờ mặt cắt con tàu có hình thang, nên trọng lượng choán nước tăng thêm 300 tấn. Những khác biệt bên ngoài bao gồm một bộ cắt lưới chống tàu ngầm trước mũi và một vòng O để cứu kéo.
Sulzer tiếp tục được chọn là nhà cung cấp động cơ diesel, với tính năng được cải thiện đôi chút so với I-52. Chúng di chuyển trên mặt nước nhờ hai động cơ diesel , mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn, mỗi trục được vận hành bởi một động cơ điện . Con tàu có thể đạt tốc độ tối đa khi nổi và khi lặn. Khi Kaidai IIIA di chuyển trên mặt nước nó đạt tầm xa hoạt động ở tốc độ , và có thể lặn xa ở tốc độ .
Lớp Kaidai IIIA có tám ống phóng ngư lôi , gồm sáu ống trước mũi và hai ống phía đuôi; mỗi ống mang theo một quả ngư lôi nạp lại, nên mang tổng cộng 16 ngư lôi. Chúng cũng trang bị một /45 caliber trên boong tàu.
Chế tạo
Được chế tạo bởi Xưởng vũ khí Hải quân Kure tại Kure, được đặt lườn như là chiếc vào ngày 1 tháng 4, 1924, rồi đổi tên thành vào ngày 1 tháng 11, 1924. Nó được hạ thủy vào ngày 5 tháng 8, 1925, Họ rời Cao Hùng vào ngày 13 tháng 7 để tiếp tục huấn luyện tại vùng biển Trung Quốc rồi quay trở lại vịnh Tokyo vào ngày 21 tháng 8. Chuyến đi kết thúc khi họ đến vịnh Sukumo, Shikoku vào ngày 25 tháng 2, 1935. Hải đội Tàu ngầm 4 được đặt dưới quyền điều động trực tiếp của Hạm đội Liên hợp vào ngày 15 tháng 11, 1940. Cả hai đều chịu hư hại bởi sóng to do biển động mạnh, nên phải quay trở lại vịnh Cam Ranh để sửa chữa, I-53 bị hư hại nhẹ khi bị va chạm với tàu tiếp liệu tàu ngầm Chōgei trong biển nội địa Seto vào khoảng ngày 8 tháng 5, 1942, Có nguồn thông tin khác cho là con tàu bị tháo dỡ vào năm 1948.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
, nguyên là **_Tàu ngầm số 64_**, sau đổi tên thành , là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIA nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1927.
**_I-121_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 48_** và mang tên **_I-21_** từ năm 1924 đến năm 1938 là một tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu
**_I-122_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 49_** và mang tên **_I-22_** từ năm 1926 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
**_I-53_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C3 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu ngầm
Hai tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản từng được đặt cái tên **_I-53_**: * _I-53_ (1925) là một IIIA hạ thủy năm 1925, đổi tên thành I-153 năm 1942 và ngừng hoạt
Ít nhất hai tàu ngầm của Hải quân Đức từng được đặt cái tên **_U-153_**: * là một tàu ngầm hạ thủy năm 1917 và đầu hàng năm 1918 trước khi bị đánh đắm năm
**Tàu ngầm Kiểu _Kaidai**_ (海大型潜水艦, _Kaidai-gata sensuikan_) là một lớp tàu ngầm hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản hoạt động trước và trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Tên lớp tàu
Đây là danh sách các tàu chiến thuộc Đế quốc Nhật Bản. ## Tàu chiến trung cổ * Atakebune, Tàu chiến cận bờ thế kỉ 16. * Châu Ấn Thuyền – Khoảng 350 tàu buồm
**_Hiryū_** (**Nhật**: 飛龍, _Phi Long_) là một tàu sân bay thuộc lớp Sōryū được cải biến của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó là một trong những tàu sân bay Nhật đã mở đầu
**_Arleigh Burke_** là một lớp tàu khu trục tên lửa dẫn đường thuộc biên chế Hải quân Hoa Kỳ. Nó được xây dựng dựa trên Hệ thống Tác chiến Aegis và radar mảng pha quét
**Tàu khu trục Type 052C** (NATO/OSD định danh **tàu khu trục lớp Lữ Dương II**) là một lớp tàu khu trục mang tên lửa dẫn đường được chế tạo cho Hải quân Trung Quốc (PLAN).
**USS _Argonaut_ (SS-475)** là một được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu ngầm thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được
**USS _Sangamon_ (CVE-26)** là một tàu sân bay hộ tống được cải biến từ tàu chở dầu để phục vụ cho Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc
**Lớp thiết giáp hạm _Scharnhorst**_ là những tàu chiến chủ lực đầu tiên, thuật ngữ dùng để chỉ tàu chiến-tuần dương hay thiết giáp hạm, được chế tạo cho Hải quân Đức (_Kriegsmarine_) sau Chiến
**Mặt trận Baltic** là một trong ba mục tiêu tấn công đầu tiên của quân đội Đức Quốc xã trong Chiến dịch Barbarossa. Trong tuần lễ đầu tiên của cuộc Chiến tranh Xô-Đức, tại đây
**Chiến dịch tấn công chiến lược Iaşi–Chişinău** hay **Chiến dịch tấn công chiến lược Jassy-Kishinev** (,, gọi tắt là **Chiến dịch Iaşi-Chişinău** hay **Chiến dịch Jassy-Kishinev** là một chiến dịch tấn công chiến lược của
**Hải quân Hoa Kỳ** (viết tắt: **USN**) là một quân chủng của Quân đội Hoa Kỳ và là một trong tám lực lượng vũ trang chuyên nghiệp của Hoa Kỳ. Tính đến năm 2018, Hải
Chiếc **Consolidated B-24 Liberator** **(Người giải phóng)** là kiểu máy bay ném bom hạng nặng 4 động cơ Hoa Kỳ do hãng Consolidated Aircraft chế tạo. Nó được sản xuất với số lượng nhiều hơn
**Chiến dịch Kavkaz** là tên gọi chung cho một chuỗi các hoạt động quân sự tại khu vực Kavkaz diễn ra giữa quân đội Liên Xô và quân đội Đức Quốc xã trong cuộc Chiến
**Chiến dịch tấn công hữu ngạn Dniepr** ở Ukraina (1944), hay còn được gọi là **Chiến dịch tấn công Dniepr–Carpath**, kéo dài từ ngày 24 tháng 12 năm 1943 đến ngày 14 tháng 4 năm
**Chiến dịch Barbarossa** (), còn được gọi là **Cuộc xâm lược của Đức vào Liên Xô** là mật danh của chiến dịch xâm lược Liên Xô do Quân đội Đức Quốc xã tiến hành trong
**Máy bay quân sự giữa hai cuộc chiến tranh thế giới** là các máy bay quân sự được phát triển và sử dụng trong khoảng thời gian giữa Chiến tranh thế giới I và Chiến
**Chiến dịch Blau** (tiếng Đức: **_Fall Blau_**) là mật danh của Kế hoạch tổng tấn công từ mùa hè năm 1942 của quân đội Đức Quốc xã trên toàn bộ cánh Nam của mặt trận
**Trận tái chiếm Corregidor**, 16–26 tháng 2 năm 1945, diễn ra giữa lực lượng quân giải phóng Hoa Kỳ và quân du kích Nhật phòng thủ trong rừng trên đảo Corregidor. Trước khi người Nhật
**McDonnell Douglas F/A-18 Hornet** **(Ong vò vẽ)** là một máy bay phản lực chiến đấu đa nhiệm siêu thanh hai động cơ có khả năng hoạt động trên tàu sân bay trong mọi thời tiết,
**George Herbert Walker Bush** (còn gọi là **George Bush cha**, **Bush Sr.** hoặc **Bush 41**, 12 tháng 6 năm 1924 – 30 tháng 11 năm 2018) là một chính trị gia, doanh nhân, và là
**Sevilla** là thành phố nằm ở phía nam Tây Ban Nha, là thành phố lớn nhất và thủ phủ của vùng Andalucía và tỉnh Sevilla, nằm ở hạ lưu sông Guadalquivir, nơi có cảng cho
Catbi Plaza. Hải Phòng là một trung tâm kinh tế của miền bắc nói riêng và của cả Việt Nam nói chung. Dưới thời Pháp thuộc, Hải Phòng là thành phố cấp 1, ngang hàng
Đường Buchanan ở trung tâm thành phố, nhìn về phía nam **Glasgow** (tiếng Gael Scotland: _Glaschu_) là thành phố lớn nhất trong số 32 đơn vị hành chính của Scotland, nằm bên sông Clyde ở
**Copenhagen** (viết theo tên tiếng Anh; phiên âm tiếng Việt: **Cô-pen-ha-ghen**) hay **København** (tên gốc tiếng Đan Mạch, ) là thủ đô và là thành phố lớn nhất của Đan Mạch, đồng thời là thành
**Gloster Meteor** là loại máy bay tiêm kích phản lực đầu tiên của Anh, và cũng là máy bay phản lực đầu tiên và duy nhất của quân Đồng minh hoạt động trong Chiến tranh
nhỏ|phải|Tượng thần bò trong bảo tàng văn hóa Lưỡng Hà **Tục thờ Bò** hay **tín ngưỡng thờ Bò** hay còn gọi là **thờ Thần Bò** hay **đạo thờ Bò** là việc thực hành các tín
**Thủ Đức** là một thành phố cũ thuộc Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Tiền thân của thành phố Thủ Đức là huyện Thủ Đức cũ trước khi bị chia tách thành ba quận
Ngày **1 tháng 1** là ngày thứ 1 trong lịch Gregory. Đây là ngày đầu tiên trong năm. ## Lịch sử Trong suốt thời Trung cổ dưới ảnh hưởng của Giáo hội Công giáo Rôma,
**Yemen** (; ), quốc hiệu là **Cộng hòa Yemen** () là một quốc gia nằm ở Tây Á, tọa lạc ở phía nam bán đảo Ả Rập. Yemen là quốc gia lớn thứ hai trên
So sánh GDP TQ **Nền kinh tế của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa** là một nền kinh tế đang phát triển định hướng thị trường kết hợp kinh tế kế hoạch thông qua các
**Đảo Staten** (tiếng Anh: _Staten Island_) là một quận của Thành phố New York nằm trong phần phía tây nam của thành phố. Ngăn cách Đảo Staten với tiểu bang New Jersey là hai eo
**Chiến dịch Debrecen** (6 tháng 10 - 28 tháng 10 năm 1944) là một chiến dịch tấn công do Hồng quân Liên Xô và quân đội România tổ chức nhằm tấn công quân đội Đức