✨I-33 (tàu ngầm Nhật)

I-33 (tàu ngầm Nhật)

I-33 là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực hiện một chuyến tuần tra trong khuôn khổ Chiến dịch Guadalcanal và tham gia trận chiến Đông Solomon trước khi bị đắm do tai nạn tại Truk vào tháng 9, 1942. Được trục vớt và đưa về Nhật Bản để sửa chữa, I-33 lại bị đắm do tai nạn khi chạy thử máy trong biển nội địa Seto vào tháng 6, 1944. Xác tàu đắm chỉ được trục vớt sau chiến tranh.

Thiết kế và chế tạo

Thiết kế

Tàu ngầm Type B được cải tiến từ phân lớp KD6 của lớp tàu ngầm Kaidai dẫn trước, và được trang bị một thủy phi cơ nhằm tăng cường khả năng trinh sát. Chúng có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn, Nó được đổi tên thành I-41 vào ngày 25 tháng 3, 1941 và hạ thủy vào ngày 1 tháng 5, 1941, Lúc khoảng nữa đêm ngày 28 tháng 8, I-15 trông thấy một tàu chiến mà nó nhận định là một tàu sân bay ở vị trí về phía Đông San Cristóbal đang hướng xuống phía Nam, một nữa thủy thủ đoàn được nghỉ phép trên bờ, hạm trưởng của I-33 đang ở bên trên Urakami Maru, và sĩ quan hoa tiêu là chỉ huy cao cấp nhất trên tàu vàp lúc đó. Từ sáng sớm, ba kỹ sư từ Urakami Maru đã có mặt trên tàu để sửa chữa ống phóng ngư lôi số 6. Đến 09 giờ 21 phút, sĩ quan hoa tiêu cho phép mở van thùng dằn chính phía sau tàu để giúp cho việc sửa chữa dễ dàng hơn, bằng cách nâng cao phần mũi tàu và giảm nhẹ hiệu ứng do sóng đánh. Tuy nhiên, I-33 bị mất cân bằng và dây neo phía đuôi với bến tàu bị đứt khiến nước tràn vào cửa sập phòng ngư lôi phía trước, và chiếc tàu ngầm đắm chỉ trong vòng hai phút khiến 33 thành viên thủy thủ đoàn thiệt mạng.

Hoạt động cứu hộ lập tức được tiến hành. Thợ lặn tìm thấy I-33 dưới đáy vũng biển ở độ sâu và báo cáo một số thủy thủ của nó vẫn còn sống sót. Tuy nhiên do không có thiết bị cứu hộ phù hợp, bộ chỉ huy Đệ Lục hạm đội quyết định hủy bỏ hoạt động cứu hộ vào ngày hôm sau 27 tháng 9, và mở cuộc điều tra về nguyên nhân tai nạn.

Trục vớt

Vào ngày 30 tháng 9, Bộ Hải quân Nhật Bản ra lệnh trục vớt I-33, và Hạm đội Liên hợp chuyển tiếp mệnh lệnh này đến Đệ Tứ hạm đội vào ngày 2 tháng 10, vì Đệ Lục hạm đội không có phương tiện phù hợp. Công việc được tiến hành từ ngày 19 tháng 12, lườn I-33 được bơm khí nén và mũi tàu nổi lên được mặt nước; tuy nhiên một cửa nắp bị bung ra chỉ sau ba phút nên con tàu lại chìm xuống. Tàu cứu hộ tàu ngầm Mie Maru và tàu chở dầu Nippo Maru tiếp tục một nỗ lực khác vào ngày 25 tháng 12, và I-33 nổi trở lại vào ngày 29 tháng 12.

1943 - 1944

Sửa chữa

Nippo Maru kéo I-33 rời Truk vào ngày 2 tháng 3, 1943 để quay trở về Nhật Bản. Trên đường đi còn có các pháo hạm phụ trợ Chou MaruHeijo Maru cùng tháp tùng đoàn tàu, và từ ngày 9 tháng 3 còn có sự tham gia của tàu khu trục Yūnagi. Các con tàu đi đến Saeki, Hiroshima vào ngày 17 tháng 3, và I-33 được kéo đến Kure để bắt đầu được sửa chữa tại Xưởng vũ khí Hải quân Kure từ ngày 18 tháng 3.

I-33 được phân về Đơn vị Phòng vệ Kure từ ngày 1 tháng 4, 1944. Đồng thời với việc sửa chữa, chiếc tàu ngầm còn được trang bị radar và bộ dò radar, và công việc kéo dài cho đến đầu tháng 5, 1944. Khi việc sửa chữa hoàn tất, nó được phân về Hải đội Tàu ngầm 11 trực thuộc Đệ Lục hạm đội vào ngày 1 tháng 6.

Bị đắm trong biển nội địa Seto

I-33 xuất phát từ Kure lúc 07 giờ 00 ngày 13 tháng 6 để hoàn tất việc chạy thử máy, tiến hành một loạt các đợt lặn trong biển nội địa Seto. Khi nó thực hiện đợt lặn thứ hai lúc 08 giờ 40 phút, van hút khí chính bên mạn phải đã không đóng lại, nên mọi khoang kín nước phía sau phòng điều khiển đều bị ngập nước. Thủy thủ đoàn tìm mọi cách đẩy nước ra khỏi thùng dằn chính, và mũi tàu trồi lên mặt nước khoảng mười phút sau khi bắt đầu lặn. Tuy nhiên việc ngập nước vẫn tiếp diễn nên chỉ vài giây sau đó con tàu lại chìm xuống đến đáy biển ở độ sâu . Hạm trưởng I-33 cùng chín người khác bị mắc kẹt trong phòng điều khiển, và khi khoang này bắt đầu ngập nước, ông quyết định ở lại tàu nhưng ra lệnh cho những người khác rời tàu qua tháp chỉ huy. Tám người đã trồi lên mặt nước, nhưng hầu hết đã bị kiệt sức và đuối nước nên chỉ còn lại hai người sống sót bơi đến bờ. Mười ba người khác bị mắc kẹt tại khoang thủy thủ phía trước tàu, nơi cửa thoát hiểm bị kẹt không thể mở được; 12 người đã chết ngạt trước khi người cuối cùng tự sát. Tổng cộng 102 người đã thiệt mạng trong tai nạn này.

Vài giờ sau khi I-33 đắm, những người đánh cá phát hiện hai thủy thủ sống sót và đưa họ đến Mitohama, nơi tai nạn được báo cáo cho giới chức hải quân. Tàu tiếp liệu tàu ngầm Chōgei đến đón những người sống sót và đi đến hiện trường. Sang ngày hôm sau 14 tháng 6, máy bay tuần tra nhìn thấy vết dầu loang, nên dẫn đường cho Chōgei đến khu vực I-33 bị đắm. Thợ lặn của Chōgei phát hiện xác tàu đắm của I-33 vào ngày 15 tháng 6, tìm thấy xác hai người bị kẹt lại trên cầu tàu, đồng thời xác định nguyên nhân của tai nạn khi tìm thấy một mảnh gỗ đường kính bị rơi vào ống hút khí chính khi nó được sửa chữa tại Kure, làm kẹt van và gây ra ngập nước.

Một sàn lan trục vớt trang bị cần cẩu được gửi đến nơi vào ngày 16 tháng 6 để chuẩn bị trục vớt, nhưng một cơn bão đang đến gần khiến mọi nỗ lực cứu hộ và trục vớt phải dừng lại. Việc điều tra nguyên nhân tai nạn không được xúc tiến, khi phần lớn các sĩ quan được chỉ định điều tra đã tử trận trong Chiến dịch quần đảo Mariana vào mùa Hè năm 1944. Hải quân Đế quốc Nhật Bản xóa tên I-33 khỏi đăng bạ hải quân vào ngày 10 tháng 8, 1944.

Trục vớt và tháo dỡ

Sau chiến tranh, công ty trục vớt Hokusei Sempaku bắt đầu các hoạt động nhằm trục vớt I-33 vào tháng 6, 1953. Công việc được tiến hành từ ngày 23 tháng 7 đến ngày 18 tháng 8, 1953. Họ khám phá rằng các khoang phía trước của tàu đã không bị ngập nước. Con tàu được tháo dỡ tại xưởng tàu của hãng Hitachi tại Innoshima, Hiroshima.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_I-33_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_I-15_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã
**_I-26_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_I-13_** là một tàu ngầm lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai, thuộc phân lớp Type A Cải tiến 2 (Type AM). Được
**_I-6_** là một tàu ngầm tuần dương, là chiếc duy nhất thuộc phân lớp của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, và có khả năng mang máy bay. Nhập biên chế năm 1935, _I-6_ đã
**_I-29_**, tên mã _Matsu_, là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm
**_I-53_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C3 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu ngầm
**_I-64_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai IV nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1930. Nó đã phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_I-75_**, sau đổi tên thành **_I-175_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
, nguyên là **_Tàu ngầm số 78_**, sau đổi tên thành , là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIA nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1927.
**_I-27_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_U-33_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1936, nó đã can
Ít nhất ba tàu ngầm của Hải quân Đức từng được đặt cái tên **_U-33_**: * là một tàu ngầm hạ thủy năm 1914, phục vụ trong Thế Chiến I và đầu hàng năm 1919
Tàu ngầm **_lớp Virginia_**, hay **lớp SSN-774**, là một loại tàu ngầm tấn công nhanh, chạy bằng năng lượng hạt nhân, mang tên lửa hành trình đang được trang bị cho Hải quân Mỹ. Tàu
**Tàu ngầm lớp I-15** (cũng được biết đến như tàu ngầm Kiểu B1) là loại tàu ngầm có số lượng lớn nhất mà Hải quân Hoàng gia Nhật Bản từng sử dụng trong chiến tranh
U-boat **Type VII** là kiểu tàu ngầm thông dụng nhất của Hải quân Đức Quốc Xã trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, với 703 chiếc được chế tạo vào lúc cuộc xung đột kết
**_Lớp tàu ngầm Seawolf_** là một lớp tàu ngầm tấn công nhanh (SSN) sử dụng năng lượng hạt nhân, là lực lượng nòng cốt của đội tàu ngầm của Hải quân Liên bang Mỹ (USN).
**_U-36_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1936, nó đã thực
**_U-35_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1936, nó đã thực
**_U-78_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó không tham
**_U-304_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó chỉ kịp
**_U-102_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó chỉ thực
Đây là danh sách các tàu chiến thuộc Đế quốc Nhật Bản. ## Tàu chiến trung cổ * Atakebune, Tàu chiến cận bờ thế kỉ 16. * Châu Ấn Thuyền – Khoảng 350 tàu buồm
**_Hiryū_** (**Nhật**: 飛龍, _Phi Long_) là một tàu sân bay thuộc lớp Sōryū được cải biến của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó là một trong những tàu sân bay Nhật đã mở đầu
**_Portland_** là một lớp tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ được chế tạo vào đầu những năm 1930, bao gồm hai chiếc: và . ## Nguồn gốc _Portland_ là lớp tàu
nhỏ|250x250px|Hàng không mẫu hạm lớn nhất thế giới. Nhân viên điều hành trên tháp quan sát của chiếc [[USS Ronald Reagan của Hoa Kỳ.|thế=]] **Tàu sân bay** (tiếng Anh: _aircraft carrier_), hay **hàng không mẫu
nhỏ|388x388px|Tàu tuần dương _Frunze_ thuộc [[Tàu tuần dương hạng nặng lớp Kirov|lớp _Kirov_ của Hải quân Nga]] **Tàu tuần dương**, còn được gọi là **tuần dương hạm**, là một loại tàu chiến lớn, có vai
**Lớp _Lexington**_ là lớp tàu chiến-tuần dương duy nhất được Hải quân Hoa Kỳ đặt hàng. Sáu chiếc trong lớp - được đặt những cái tên liên quan đến Chiến tranh Độc lập Hoa Kỳ
**_Hatsuzuki_** (tiếng Nhật: 初月 - _Sơ Nguyệt)_ là một khu trục hạm lớp _Akizuki_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Là con tàu thứ tư của lớp _Akizuki_, _Hatsuzuki_ đã tham chiến tích cực
nhỏ|Zeppelin và tàu [[USS Los Angeles (CA-135)|USS Los Angeles, 1931]] **Zeppelin** đã từng là những khí cầu khung cứng thành công nhất. Zeppelin được đặt tên theo nhà chế tạo chúng là Ferdinand Graf von
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Courageous**_ bao gồm ba chiếc tàu chiến-tuần dương được biết đến như là những "tàu tuần dương hạng nhẹ lớn" được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Trên
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Admiral**_ là một lớp bao gồm bốn tàu chiến-tuần dương của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được thiết kế vào lúc Chiến tranh Thế giới thứ nhất sắp kết thúc.
Đây là danh sách các hạm đội của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Lực lượng này tồn tại từ năm 1868 đến năm 1945, khi nó được thay thế bởi Lực lượng phòng vệ
**Lớp tàu sân bay _Graf Zeppelin**_ là hai tàu sân bay của Hải quân Đức được đặt lườn vào giữa những năm 1930 như một phần của Kế hoạch Z nhằm tái vũ trang. Bốn
**USS _Liscome Bay_ (CVE-56)** là một tàu sân bay hộ tống lớp _Casablanca_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai; tên nó được đặt theo vịnh Liscome thuộc
**Lớp tàu tuần dương _Dido**_ là một lớp tàu tuần dương hạng nhẹ bao gồm 16 chiếc (tính cả lớp phụ _Bellona_) của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Thiết kế của chúng bị ảnh
**USS _Waters_ (DD-115/ADP-8)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Wickes_ của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, sau được cải biến thành tàu vận chuyển cao tốc
**HMS _Ramillies_ (07)** là một thiết giáp hạm thuộc lớp _Revenge_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Tên của nó được đặt theo trận Ramillies. _Ramillies_ từng hoạt động trong cả Chiến tranh Thế
**USS _Astoria_ (CA-34)** (trước đó là **CL-34**) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _New Orleans_, là chiếc tàu chiến thứ hai được đặt tên theo thành phố
**USS _Wyman_ (DE-38)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Evarts_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu quân sự đầu tiên của
**USS _Sangamon_ (CVE-26)** là một tàu sân bay hộ tống được cải biến từ tàu chở dầu để phục vụ cho Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc
**USS _Arkansas_ (BB-33)** là một thiết giáp hạm của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc thứ hai trong lớp _Wyoming_ vốn bao gồm hai chiếc. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân
**USS _Murray_ (DD-576/DDE-576)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Mỹ
**Chiến dịch Guadalcanal**, còn gọi là **Trận Guadalcanal**, tên mã của Đồng Minh là **Chiến dịch Watchtower**, diễn ra từ ngày 7 tháng 8 năm 1942 đến ngày 9 tháng 2 năm 1943 trên đảo
**USS _North Carolina_ (BB-55)** là một thiết giáp hạm của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm hai chiếc, và là chiếc thiết giáp hạm mới đầu tiên
**Tàu tuần tra tên lửa lớp Hayabusa** (tiếng Nhật: **はやぶさ型ミサイル艇**) là một lớp tàu tuần tra mang tên lửa thuộc Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF), do Nhà máy đóng tàu Shimonoseki
**Trận tấn công Trân Châu Cảng** (hay **Chiến dịch Hawaii** và **Chiến dịch AI** của Hawaii, và **Chiến dịch Z** theo cách gọi của Bộ Tổng tư lệnh Đế quốc Nhật Bản) là một cuộc
**HMS _Hood_ (51)** là chiếc tàu chiến-tuần dương cuối cùng và cũng đồng thời là chiếc tàu chiến-tuần dương duy nhất thuộc lớp Admiral của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được chế tạo hoàn
nhỏ|HMS Dreadnought **Thiết giáp hạm** ()là một loại tàu chiến lớn được bọc thép dày với dàn hỏa lực chính bao gồm pháo có cỡ nòng rất lớn (trên 300mm). Thiết giáp hạm là loại
**Yokosuka MXY-7 _Ohka**_, (櫻花 (Shinjitai: 桜花) "Hoa anh đào" Hebon-shiki transcription **Ōka**,) là một loại bom chống tàu chiến được điều khiển bởi các phi công cảm tử _Thần phong_, được Nhật Bản chế tạo