✨Dido (lớp tàu tuần dương)

Dido (lớp tàu tuần dương)

Lớp tàu tuần dương _Dido_ là một lớp tàu tuần dương hạng nhẹ bao gồm 16 chiếc (tính cả lớp phụ Bellona) của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Thiết kế của chúng bị ảnh hưởng mạnh bởi lớp tàu tuần dương hạng nhẹ Arethusa. Nhóm đầu tiên gồm ba chiếc được đưa ra hoạt động vào năm 1940, nhóm thứ hai (sáu chiếc) và nhóm thứ ba (hai chiếc) được đưa ra hoạt động trong những năm 1941–1942. Những chiếc trong lớp phụ Bellona được đưa ra hoạt động từ năm 1943 đến năm 1944. Hầu hết những chiếc trong lớp được đặt tên theo những hình tượng của thần thoại Hy Lạp.

Thiết kế

Chúng được thiết kế như những tàu tuần dương phòng không (anti-aircaraft cruiser), chuyên hộ tống và bảo vệ các thiết giáp hạm, tàu sân bay cũng như các tàu chở hàng trước máy bay, tàu ngầm, tàu khu trục và tàu phóng lôi của đối phương. Sự nhiệt tình mà Bộ Hải quân Anh dành cho chúng là lo kết quả rất tốt trong chiến đấu; và vấn đề thực sự đối với kiểu tàu này là sự thiếu hụt tháp pháo và nhu cầu gia cố thêm phía trước để chịu đựng sức nặng các tháp pháo phía trước.

nhỏ|trái|[[HMS Cleopatra (33)|HMS Cleopatra tung ra màn khói che giấu một đoàn tàu vận tải; trong khi HMS Euryalus nâng các khẩu pháo 5.25 inch nhắm vào Hạm đội Ý trong Trận Sirte thứ hai, ngày 22 tháng 3 năm 1942]]

Trang bị vũ khí

Theo thiết kế, những chiếc tàu tuần dương lớp Dido được trang bị 10 khẩu pháo lưỡng dụng QF 5.25 inch Mk I được bố trí trên 5 tháp pháo nòng đôi có thiết kế góc tròn tương tự dàn pháo phụ của các thiết giáp hạm thuộc lớp King George V. Tuy nhiên, việc thiếu hụt những khẩu pháo 5.25 inch do những khó khăn trong việc chế tạo đã dẫn đến việc những tàu tuần dương nhóm thứ nhất chỉ được trang bị 8 khẩu pháo 5.25 inch được bố trí trên 4 tháp pháo nòng đôi. Tháp pháo 5.25 inch nòng đôi thứ năm chỉ được bổ sung sau đó cho HMS Dido. Ngoài ra, các tàu nhóm một cũng được trang bị 1 khẩu pháo 100 mm (4 inch) để bắn pháo sáng và 2 tổ hợp pháo phòng không 4 nòng QF-2 pounder "pom-pom.

Nhóm thứ hai có đủ năm tháp pháo 5.25 inch nòng đôi nhưng không được bổ sung pháo nòng đơn. Vũ khí trang bị cho nhóm thứ ba (gồm HMS Scylla (98) và HMS Charybdis (88)) hoàn toàn thay đổi do việc thiếu hụt pháo 5.25 inch trong chiến tranh. 2 chiếc này chỉ được trang bị tám khẩu pháo QF 4.5-inch Mk III (114 mm) trên bốn tháp pháo. Pháo 4.5 inch phù hợp hơn trong thực tế với vai trò phòng không chính của các tàu lớp Dido vì thời gian để nạp đạn và khai hỏa của những khẩu pháo 4.5 inch nhanh và chúng có góc nâng cao hơn hẳn so với pháo 5.25 inch. Tháp pháo 4 inch (102 mm) nòng đơn được áp dụng trở lại, và số lượng vũ khí QF 2 pounder "pom-pom" được tăng từ tám lên mười khẩu.

Lớp phụ Bellona chỉ khác biệt đôi chút so với những chiếc thuộc lớp Dido tiền nhiệm. Chúng có tám khẩu pháo QF 5.25 inch Mark II được bố trí trên bốn tháp pháo và có dàn hoả lực phòng không được cải thiện đáng kể với 12 khẩu QF 2 pounder và 12 khẩu Oerlikon 20 mm. Tháp chỉ huy của lớp phụ Bellona được hạ thấp một sàn so với ba nhóm trước đó, cho phép kiểm soát toàn bộ bằng radar đối với các tháp pháo 5,25 inch (133 mm) và 2 pounder, nhờ vào việc giảm trọng lượng bên trên. Những con tàu này sử dụng Hệ thống điều khiển hỏa lực góc cao (HACS).

Lịch sử hoạt động

Trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, những chiếc trong lớp Dido đã tham gia nhiều hoạt động trên mọi chiến trường, bao gồm trận chiến mũi Matapan, trận Sirte thứ hai, Chiến dịch Torch, Chiến dịch Overlord và trận Okinawa, cũng như nhiều nhiệm vụ khác tại Địa Trung Hải và Thái Bình Dương. Một số chiếc trong lớp đã bị mất trong chiến tranh: Bonaventure, Charybdis, Hermione, Naiad, ScyllaSpartan. Những chiếc còn sống sót tiếp tục phục vụ sau chiến tranh, tất cả đều được cho ngừng hoạt vào những năm 1960. Bellona, Black PrinceRoyalist được chuyển cho Hải quân Hoàng gia New Zealand mượn sau Thế Chiến II; trong khi Diadem được bán cho Pakistan vào năm 1956 và được đổi tên thành Babur.

Các cải biến trong hoạt động

Lớp phụ Dido

Bonaventure chỉ hoàn tất với bốn tháp pháo 5,25 inch nòng đôi do thiếu hụt trong sản xuất, và được trang bị một khẩu pháo 4 inch bắn pháo sáng ở vị trí X. Nó nhận được một bộ radar trước tháng 10 năm 1940, nhưng không có cải tiến nào khác.

Naiad hoàn tất với năm tháp pháo 5,25 inch. Nó được bổ sung năm khẩu 20 mm và radar Kiểu 279 vào tháng 9 năm 1941.

Phoebe hoàn tất với bốn tháp pháo, và được trang bị một khẩu 4 inch ở vị trí Q phía trước cầu tàu, nó được tháo dỡ trong một đợt tái trang bị từ tháng 11 năm 1941 đến tháng 4 năm 1942 tại New York cùng với các súng máy 0,5 inch và radar Kiểu 279, trong khi một khẩu đội 2 pounder bốn nòng thay chỗ cho pháo 4 inch và bổ sung 11 khẩu 20 mm nòng đơn. Dàn radar bao gồm các kiểu 281, 284 và 285. Tháp pháo A tạm thời được tháo dỡ vào cuối năm 1942 sau khi bị hư hại bởi ngư lôi. Khi được sửa chữa vào sáu tháng đầu năm 1943, cả ba khẩu 2 pounder bốn nòng và bảy khẩu 20 mm nòng đơn được tháo dỡ, thay bằng ba khẩu đội Bofors 40 mm bốn nòng và sáu khẩu 20 mm nòng đôi. Radar Kiểu 272 cũng được trang bị. Tháp pháo A được thay thế vào tháng 7 năm 1943. Dàn hỏa lực phòng không hạng nhẹ của nó vào tháng 4 năm 1944 gồm 12 khẩu 40 mm (3×4) và 16 khẩu 20 mm (6×2, 4×1).

Dido có bốn tháp pháo và một khẩu 4 inch tương tự như Phoebe. Khẩu 4 inch và súng máy được tháo dỡ vào nữa sau của năm 1941 tại Xưởng hải quân Brooklyn, khi tháp pháo Q được chở đến để trang bị và bổ sung năm khẩu 20 mm nòng đơn. Vào đầu mùa Hè năm 1943, ba khẩu 20 mm nòng đơn được thay thế bằng bốn khẩu 20 mm nòng đôi, và được bổ sung các bộ radar kiểu 272, 282, 284 và 285. Tuy nhiên, danh sách liệt kê vào tháng 4 năm 1944 cho thấy nó chỉ có tám khẩu 20 mm. nhỏ|trái|Các tàu tuần dương [[HMS Edinburgh (16)|HMS Edinburgh, HMS Hermione và HMS Euryalus đang di chuyển theo đội hình hàng dọc đang khi hộ tống một đoàn tàu vận tải trong Chiến dịch Halberd.]] Euryalus hoàn tất với cấu hình giống như dự định. Vào tháng 9 năm 1941, súng máy 0,5 inch được thay bằng năm khẩu 20 mm nòng đơn, rồi được bổ sung thêm hai khẩu vào tháng 9 năm 1942. Vào giữa năm 1943 hai khẩu 20 mm nòng đơn được thay bằng bốn khẩu 20 mm nòng đôi, và radar Kiểu 279 được thay bằng các kiểu 272, 281, 282 và 285. Trong một đợt tái trang bị kéo dài từ tháng 10 năm 1943 đến tháng 7 năm 1944, tháp pháo Q được thay thế bằng một khẩu đội 2 pounder bốn nòng và hai khẩu 20 mm nòng đôi. Radar kiểu 271 và 272 được thay bằng các kiểu 279b, 277 và 293.

Hermione cũng hoàn tất với năm tháp pháo. Súng máy 0,5 inch của nó được tháo dỡ vào tháng 10 - tháng 11 năm 1941 thay bằng năm khẩu 20 mm nòng đơn.

Sirius hoàn tất với năm tháp pháo và năm khẩu 20 mm nòng đơn, rồi được bổ sung thêm hai khẩu 20 mm nòng đơn vào giữa năm 1943. Một trong số chúng được tháo dỡ tại Massawa vào cuối năm 1943, bổ sung hai khẩu Bofors 40 mm Mk III nòng đơn. Tuy nhiên, danh sách liệt kê vào tháng 4 năm 1944 cho thấy nó chỉ có bảy khẩu 20 mm cho dàn hỏa lực phòng không hạng nhẹ. Đến tháng 4 năm 1945 nó tháo dỡ hai khẩu 20 mm nòng đơn để trang bị thêm hai khẩu 40 mm nòng đơn Mk III.

Cleopatra hoàn tất với hai khẩu 2 pounder nòng đơn vào năm 1942 thay cho số súng máy 0,5 inch, nhưng chúng được tháo dỡ vào giữa năm đó thay bằng năm khẩu 20 mm nòng đơn. Một khẩu 20 mm nòng đơn thứ sáu được bổ sung vào giữa năm 1943. Trong đợt sửa chữa kéo dài từ tháng 11 năm 1943 đến tháng 11 năm 1944, tháp pháo Q được tháo dỡ cùng với hai khẩu đội 2 pounder bốn nòng và năm khẩu 20 mm nòng đơn. Chúng được thay bằng ba khẩu Bofors 40 mm bốn nòng cùng sáu khẩu 20 mm nòng đôi và bốn khẩu nòng đơn.

Argonaut hoàn tất với bốn khẩu 20 mm nòng đơn thay cho số súng máy 0,5 inch. Tháp pháo Q của nó được tháo dỡ trong đợt sửa chữa vào năm 1943-1944 và tháo dỡ bốn khẩu 20 mm nòng đơn, thay bằng một khẩu đội 2 pounder bốn nòng và năm khẩu 20 mm nòng đôi. Vào tháng 4 năm 1944 dàn hỏa lực phòng không hạng nhẹ của nó bao gồm ba khẩu đội 2 pounder bốn nòng, sáu khẩu đội 20 mm vận hành bằng điện và năm khẩu nòng đơn. Vào Lúc kết thúc cuộc chiến tranh với Nhật Bản, nó được trang bị năm khẩu Bofors 40 mm Bofors và ba khẩu Bofors 40 mm nòng đơn Mk III.

Scylla được hoàn tất với bốn tháp pháo 4,5 inch Mark III trên bệ UD Mark III nòng đôi do sự thiếu hụt trong sản xuất tháp pháo 5,25 inch. Cấu trúc thượng tầng phía trước được cải biến đáng kể cho phù hợp với những thay đổi này, và để làm tăng khoảng trống cho thủy thủ đoàn. Dàn hỏa lực phòng không hạng nhẹ lúc hoàn tất bao gồm tám khẩu 20 mm nòng đơn. Sáu khẩu 20 mm nòng đôi vận hành bằng điện được bổ sung vào cuối năm 1943.

Charybdis cũng được hoàn tất với bốn tháp pháo 4,5 inch nòng đôi, và được bổ sung một pháo 4 inch Mark V nòng đơn phía trước vị trí X. mounting. Dàn hỏa lực phòng không hạng nhẹ của nó bao gồm bốn khẩu 20 mm nòng đơn và hai khẩu 2 pounder nòng đơn. Khẩu pháo sáng 4 inch và hai khẩu 2 pounder nòng đơn được tháo dỡ thay bằng hai khẩu 20 mm nòng đôi và hai khẩu nòng đơn, có lẽ vào khoảng năm 1943.

Lớp phụ Bellona

nhỏ|phải|Tàu tuần dương [[HMS Diadem (84)|HMS Diadem thuộc lớp phụ Bellona]] Royalist được cải biến thành một soái hạm của Hải đội Hộ tống tàu sân bay ngay sau khi hoàn tất, khi được bổ sung hai khẩu 20 mm nòng đôi cùng bốn khẩu 20 mm nòng đơn. Nó là chiếc duy nhất trong lớp được hiện đại hóa rộng rãi sau chiến tranh.

Bellona được bổ sung bốn khẩu 20 mm nòng đơn vào tháng 4 năm 1944, rồi được thêm tám khẩu 20 mm nòng đơn nữa vào tháng 4 năm 1945.

Black PrinceDiadem cũng được bổ sung tám khẩu 20 mm nòng đơn, và thêm hai khẩu 20 mm nòng đôi vào đầu năm 1945.

Theo những thông tin biết được, Spartan không nhận được sửa đổi nào trước khi bị đánh chìm.

Những chiếc trong lớp

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lớp tàu tuần dương _Dido**_ là một lớp tàu tuần dương hạng nhẹ bao gồm 16 chiếc (tính cả lớp phụ _Bellona_) của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Thiết kế của chúng bị ảnh
**Lớp tàu tuần dương _La Galissonnière**_ là một nhóm sáu tàu tuần dương hạng nhẹ được đưa vào hoạt động cùng Hải quân Pháp trong những năm 1930. Chúng là những tàu tuần dương Pháp
**Lớp tàu tuần dương _Arethusa**_ là một lớp bốn tàu tuần dương hạng nhẹ được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc từ năm 1933 đến năm 1937, và đã phục vụ trong
nhỏ|388x388px|Tàu tuần dương _Frunze_ thuộc [[Tàu tuần dương hạng nặng lớp Kirov|lớp _Kirov_ của Hải quân Nga]] **Tàu tuần dương**, còn được gọi là **tuần dương hạm**, là một loại tàu chiến lớn, có vai
**HMS _Dido_ (37)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu tuần dương mang tên nó được đưa ra phục vụ trong
**Lớp tàu khu trục Tribal**, còn được gọi là **lớp _Afridi**_, là một lớp tàu khu trục được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh, Canada và Australia ngay trước Chiến tranh Thế giới
**HMS _Bellona_ (63)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, là chiếc dẫn đầu của một lớp phụ gồm bốn chiếc thuộc lớp tàu tuần dương _Dido_, được
**HMS _Birmingham_ (C19)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc thuộc lớp Town (1936) từng phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai và Chiến tranh Triều
Bảy tàu chiến của Hải quân Hoàng gia Anh từng được đặt cái tên **HMS _Cleopatra**_, theo tên Nữ hoàng Cleopatra của Ai Cập: * HMS _Cleopatra_ (1779) là một tàu chiến hạng năm 32
**HMS _Euryalus_ (42)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Dido_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được đưa ra hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã tham
**HMS _Diadem** (84)_ là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Hoàng gia Anh thuộc lớp _Dido_ được đưa ra hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Năm 1956, nó được
**HMS _Black Prince_ (81)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Hoàng gia Anh thuộc lớp _Dido_ được đưa ra hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Sau chiến tranh,
**HMS _Royalist_ (89)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Dido_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, được đưa ra hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Sau chiến tranh
**HMS _Spartan_ (95)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Dido_ được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc đưa ra phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. _Spartan_ đã bị bom
**HMS _Hermione_ (74)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ lớp _Dido_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, được đưa ra hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai và đã bị tàu
**HMS _Charybdis_ (88)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Dido_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, được đưa ra hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, và đã bị
**HMS _Bonaventure** (31)_ là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Dido_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Nó được đưa ra hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai và đã
**HMS _Cleopatra_ (33)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Dido_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được đưa ra hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó ngừng hoạt
**HMS _Naiad_ (93)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Dido_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc; được đưa ra hoạt động trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai và
**HMS _Scylla_ (98)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Dido_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được đưa ra hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó bị hư
**HMS _Argonaut_ (61)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Dido_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được đưa ra hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó ngừng hoạt
**HMS _Sirius_ (82)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Dido_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được đưa ra hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó ngừng hoạt
**HMS _Phoebe_ (43)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Dido_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Được đưa ra hoạt động trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai, nó
**HMS _Edinburgh_ (16)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp Town của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. _Edinburgh_ thuộc về lớp phụ cuối cùng gồm hai chiếc, vốn còn bao gồm HMS
**HMS _Danae_ (D41)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, là chiếc dẫn đầu của lớp _Danae_ vốn còn được gọi là lớp D. Hoàn tất vào lúc
Bảy tàu chiến của Hải quân Hoàng gia Anh từng được đặt cái tên **HMS _Dido**_, theo tên Dido, vị hữ hoàng huyền thoại và là người sáng lập Carthage: * HMS _Dido_ (1784) là
**USS _Ordronaux_ (DD–617)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Benson_ của Hải quân Hoa Kỳ đã phục vụ trong suốt Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của
**HMS _Kimberley_ (F50)** là một tàu khu trục lớp K được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào cuối những năm 1930. Tên nó được đặt theo thị trấn Kimberley, Northern Cape, nơi
**HMS _Dulverton_ (L63)** là một tàu khu trục hộ tống lớp Hunt Kiểu II của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được hạ thủy và đưa ra phục vụ vào năm 1941. Nó đã hoạt
**HMS _Abdiel**_ (M39) là một tàu rải mìn được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Là chiếc dẫn đầu của lớp tàu rải mìn mang tên
**HMS _Arrow_ (H42)** là một tàu khu trục lớp A của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Nó đã phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai cho đến khi bị hư hại vào
Năm tàu chiến của Hải quân Hoàng gia Anh từng được đặt cái tên **HMS _Diadem**_: * HMS _Diadem_ (1782) là một tàu chiến tuyến hạng ba 64 khẩu pháo hạ thủy năm 1782, trở
**Dido Florian Cloud de Bounevialle Armstrong** (; sinh ngày 25 tháng 12 năm 1971), được biết đến rộng rãi với nghệ danh **Dido**, là một nữ ca sĩ kiêm sáng tác nhạc nổi tiếng người
**HMS _Kelly_ (F01)** là một soái hạm khu trục, chiếc dẫn đầu của lớp tàu khu trục K được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào cuối những năm 1930. Được đặt tên
Tám tàu chiến của Hải quân Hoàng gia Anh từng được đặt cái tên **HMS _Bellona**_, được đặt theo tên vị Nữ thần Chiến tranh trong thần thoại La Mã: * HMS _Bellona_ (1747) là
Sáu tàu chiến của Hải quân Hoàng gia Anh từng được đặt cái tên **HMS _Spartan**_, theo tên những chiến binh Sparta của thời Hy Lạp cổ đại: * HMS _Spartan_ (1806) là một tàu
Sáu tàu chiến của Hải quân Hoàng gia Anh từng được đặt cái tên **HMS _Euryalus**_ theo tên Euryalus, một hình tượng trong Thần thoại Hy Lạp: * HMS _Euryalus_ (1803) là một tàu frigate
Bảy tàu chiến của Hải quân Hoàng gia Anh từng được đặt cái tên **HMS _Sirius**_, theo tên ngôi sao sáng nhất trên bầu trời vào ban đêm: * HMS _Sirius_ (1786) là một tàu
Sáu tàu chiến của Hải quân Hoàng gia từng được đặt cái tên **HMS _Royalist**_: * HMS _Royalist_ (1807) là một tàu xà-lúp brig 18 khẩu pháo lớp _Cruizer_ đóng năm 1807, từng hoạt động
Sáu tàu chiến của Hải quân Hoàng gia Anh từng được đặt cái tên **HMS _Charybdis**_, theo tên con thủy quái Charybdis trong Thần thoại Hy Lạp: * HMS _Charybdis_ (1809) là một tàu xà-lúp
Sáu tàu chiến của Hải quân Hoàng gia Anh từng được đặt cái tên **HMS _Phoebe**_ theo tên một hình tượng trong Thần thoại Hy Lạp: * HMS _Phoebe_ (1795) là một tàu frigate hạng
Tám tàu chiến của Hải quân Hoàng gia Anh từng được đặt cái tên **HMS _Bonaventure**_: *HMS _Bonaventure_ (1489) là một tàu chiến được đóng năm 1489 và bị mất năm 1509 *HMS _Bonaventure_ (1551),
Năm tàu chiến của Hải quân Hoàng gia Anh từng được đặt cái tên **HMS _Black Prince**_ nhằm tôn vinh Hoàng tử Edward (1330-1376), người con trai cả của Vua Edward III của Anh: *
Năm tàu chiến của Hải quân Hoàng gia Anh từng được đặt cái tên **HMS _Scylla**_, theo tên con thủy quái Scylla trong Thần thoại Hy Lạp: * HMS _Scylla_ (1809) là một tàu xà-lúp
Bốn tàu chiến của Hải quân Hoàng gia Anh từng được đặt cái tên **HMS _Naiad**_, theo tên của Naiad, một nhân vật trong Thần thoại Hy Lạp: * HMS _Naiad_ (1797) là một tàu
Bốn tàu chiến của Hải quân Hoàng gia Anh từng được đặt cái tên **HMS _Hermione**_, theo nhân vật Hermione, con gái của Menelaus và Helen trong Thần thoại Hy Lạp: * HMS _Hermione_ (1782)
Bốn tàu chiến của Hải quân Hoàng gia Anh từng được đặt cái tên **HMS _Argonaut**_, theo tên các vị thần Argonaut trong Thần thoại Hy Lạp: * HMS _Argonaut_ (1782) là một tàu chiến